Từ tự sự chính sử đến tiểu thuyết diễn nghĩa - Nhận diện hình tượng Gia Cát Khổng Minh
Tóm tắt:
Sự khác biệt giữa một tác phẩm lịch sử với một tác phẩm tiểu thuyết đôi khi không phải là sự khác biệt giữa sự thực và tưởng tượng mà là sự khác biệt về mức độ hư cấu (hiểu theo nghĩa rộng nhất). Phân biệt đó cho thấy việc một số nhà phê bình phân tích nghiên cứu nhân vật Khổng Minh mà không tỏ rõ họ đang hình dung nhân vật này từ nguồn thông tin nào (sử sách hay tiểu thuyết) và họ đang bình luận Khổng Minh (cả trong tư cách con người có thực và nhân vật lịch sử hay hình tượng văn chương) hay là bình luận những nguồn thông tin “dựng lên” nhân vật Khổng Minh. Xuất phát từ nhận thức đó, kết hợp với ý thức rõ ràng về tính cách đặc thù thể loại trường thiên diễn nghĩ lịch sử của bộ tiểu thuyết La Quán Trung, bài viết này là một cố gắng phân biệt Khổng Minh với tư cách nhân vt lịch sử với một Khổng Minh trong tư cách hình tượng văn học.
, trẫm không thể dặn dò từng người một, chỉ mong mỗi người ai cũng bảo trọng!”. Dứt lời vua băng hà, thọ 63 tuổi. Bấy giờ là ngày 24 tháng tư, mùa hạ, năm Chương Võ thứ ba (công lịch 222)” [4]. Ngay cả với những độc giả quen nết đọc cho biết cốt truyện cũng không thế không thầm phục tài tự sự quán xuyến diễn biến toàn sách của tác giả Tam Quốc diễn nghĩa. Chi tiết Mã Tốc trong đoạn trên xem ra có vẻ hơi lạc lõng; thế nhưng chỉ khi ta đọc đến hồi 95 kể chuyện Khổng Minh mắc sai lầm dùng Mã Tốc ở trận Nhai Đình thì mới bộc lộ tính đích đáng của nó. Tác giả Tam Quốc diễn nghĩa đã tô đậm đoạn “Tiên Chủ lâm chung phó thác con côi” thành một màn tự sự giàu sức biểu cảm. Trần thuật của tác giả cho thấy so với đoạn ký tải thuật kể sơ lược trong Tam Quốc chí kịch tính của màn chuyện này được nâng cao lên rất nhiều. Khổng Minh dường như đã trở thành nhân vật chính của màn chuyện. Lưu Bị lâm chung ngoái đi ngoảnh lại cũng chỉ trực tiếp trối trăng dặn dò có mấy người. Không kể hai người con (đáng lẽ phải có con trưởng Lưu Thiện) thì chỉ có nói chuyện cùng Khổng Minh rồi Triệu Vân. Thái tử kế vị chính là ấu chúa A Đẩu mà Triệu Vân bọc trước ngực tả xung hữu đột phá trùng vây quân Tào cứu ra năm xưa. Khi đó Lưu Bị “quẳng con xuống đất, nói Vì mày, suýt nữa ta mất một viên đại tướng” (hồi 42) thì giờ đây giao con cho Thừa tướng, Lưu Bị còn dặn dò thêm Triệu Vân nữa. Lưu Bị năm xưa quăng con mà khiến cho Triệu Vân “dù gan óc lầy đất cũng không đủ báo đáp” thì giờ đây trao con lại “khiến cho Thừa tướng nguyện dốc lòng trung trinh đến chết mới thôi”. Đằng sau câu chuyện tình vua tôi, nghĩa quân thần cảm động lòng người, sự thú vị của tình tiết được trình bày hết sức chọn lọc, một độc giả tinh tường sẽ còn đọc thấy biết bao ý vị nhân sinh và dư ba trong tâm tư. Chính điều đó làm nên chiều sâu nội tâm, đường nét nhân cách cho các hình tượng nhân vật, gợi lên sự sâu thẳm của cuộc đời nhân thế. Lưu Bị vì sao mà trăng trối cùng Khổng Minh “Con trẫm nếu phò trợ được thì làm, nhược bằng nó bất tài thì khanh tự làm chủ nhân của Thành Đô vậy (người trích nhấn mạnh bằng in nghiêng)”? Còn Khổng Minh vì sao mà vừa nghe mấy lời đó đã “tay chân rụng rời, mồ hồi đổ khắp mình, khóc lạy”, “rập đầu đến chảy máu”? Mỹ nhân đẹp cho người yêu mình, kẻ sĩ chết cho người tri kỷ. Thuật hoài, ngôn chí suy cho cùng cũng chỉ là bút mực lời chữ. Muốn tỏ được lòng trung trinh, lập trường kiên định nhiều lúc phải máu nhuộm cờ đào, gan óc lầy đất, gói thân da ngựa mới thỏa nguyện cam lòng. Thế giới nhân vật Tam Quốc là thế giới của gồm cả những minh quân hiền tướng năng thần lẫn hôn quân bạo chúa nịnh thần tặc tử cho chí vô số những anh tài trên các phương diện chính trị ngoại giao quân sự. Trong đó hạng mưu sĩ thuyết khách sớm Sở tối Tần - một đặc sắc của thời đại được mô tả khá sinh động. Có sử gia liên hệ đến tình trạng tự do lưu thông nguồn nhân lực trong một số khu vực trên thế giới ngày nay. Người ta cũng chú ý đến ngoài lệ thường chúa chọn bề tôi còn có hiện tượng anh tài chọn minh chủ trong Tam Quốc. Ai cũng thấy Trần Cung chọn thờ Lã Bố là sai, nhưng cũng có người tiếc Khổng Minh không theo phò Tào Tháo. Có thể vào thuở tam cố thảo lư, Lượng chưa thấu được cái tài diễn điều nhân của Bị nhưng cái sáng suốt của kẻ “nắm được xu thế của lịch sử” chắc đã khiến cho kẻ sĩ này ngần ngại khi rời Ngọa Long Cương. Thế nhưng nếu Khổng Minh không ra khỏi lều tranh thì Tam Quốc ai biết rồng ngọa Nam Dương? Vậy mà ở đời nhiều khi chỉ vì nặng một lời nguyền, một lời thác gửi đinh ninh của đồng chí mà cam lòng dấn thân làm đấng-bậc giữa đời. Dù cũng có lúc biết sức không trì níu nổi cuộc cờ canh bạc hoặc biết rõ oan khốc sẽ đổ xuống giữa đầu. Nhưng bù lại, họ đã có thể “nhắm được mắt xuôi được tay”, tâm hồn chính nhân an nhiên cùng cây cỏ. Khổng Minh chắc chắn là một người như thế. Tác giả Tam Quốc diễn nghĩa tìm cách nhấn mạnh màu sắc nho gia và ý vị bi kịch trong hình tượng Khổng Minh. Quả đúng như nhận xét tinh tường của Hạ Chí Thanh: “Việc 7Tam Quốc diễn nghĩa lấy nguyên đoạn lời Lưu Bị từ Gia Cát Lượng truyện - Thục Thư - Tam Quốc chí, chỉ thay đổi mấy chữ cuối cùng “Nhược kỳ bất tài, quân khả tự thủ” (Nếu con ta bất tài, khanh có thể tự mình tự làm chủ lấy) thành “Nhược kỳ bất tài, quân khả tự vi Thành Đô chi chủ”. Hàm ý đi từ chỗ mơ hồ (tự thủ - thay thế mà làm hoặc nói làm thay) chuyển sang rõ ràng xác định (tự là chủ nhân của kinh đô). Chả trách Khổng Minh nghe xong “tay chân rụng rời, mồ hôi đổ khắp mình, khóc lạy dưới đất”, đáp lời xong còn “rập đầu xuống đất đến chảy máu”. Xin nhớ là trong Gia Cát Lượng truyện (Tam Quốc chí) không có các chi tiết đó. Thế mới biết hàm súc trong văn chương đâu phải là số chữ, số lời. Và cái sự thực, ý vị nhân sinh mà tiểu thuyết diễn tả đâu phải là thứ mà ký tải lịch sử (chí/thư/lục gọi chung sử ký) phản ánh được. 58 Khoa học Xã hội và Nhân văn 62(4) 4.2020 Khổng Minh nhận gánh vác cái trách nhiệm giúp rập Lưu Bị - người được xem là thừa kế hợp pháp chính thống dòng dõi nhà Hán phục hưng Hán triều tỏ rõ lập trường nho gia của ông” [7]. Vốn định tiêu dao ngày tháng giữa sơn lâm, Khổng Minh từng phất tay áo bỏ đi khi Từ Thứ muốn tiến cử ông ra giúp đời (hồi 36). Vậy mà cảm cái đức ân cần, ơn tri ngộ và tâm tư tha thiết của Hoàng thúc, Khổng Minh cuối cùng đã giã từ lều tranh Nam Dương. Cố tránh đường nhập thế phần lớn vì bản thân ông biết trước khó lòng xoay chuyển mệnh trời, mà rốt cuộc đành dấn thân cho sự nghiệp - ấy là phong độ của một kẻ sỹ biết rõ không thể làm mà gắng gỏi làm, cúc cung tận tụy tử nhi hậu dĩ - một lòng tận tụy cho sự nghiệp đến chết mới thôi. Không biết cho đến tận lúc quẩy lại gánh nặng non sông Thục Hán mà tiên chúa phó lại rồi trút hơi thở cuối cùng giữa đường hành quân thu phục Trung Nguyên, Khổng Minh có biết câu mà người bạn thời ẩn dật Nam Dương Tư Mã Huy nói khi Lưu Bị tìm đến Ngọa Long Cương năm xưa - “Khổng Minh tuy gặp chủ, nhưng không gặp thời, tiếc thay!” (Ngọa Long tuy đắc kỳ chủ, bất đắc kỳ thời, tích tai!) [4] hay không? Thành thử, đọc hết bộ Tam Quốc diễn nghĩa độc giả phục tài thần mưu diệu toán của quân sư Thục Quốc một phần mà càng cảm bội phần đức trung thứ, chí công vô tư, tinh thần hy sinh, xử thế nghĩa dũng, cuộc đời thanh bạch liêm khiết của vị Thừa tướng Thục Hán. Đỗ Phủ dường như cũng chung phần cảm nghĩ khi viết câu bất hủ “Xuất sư vị tiệp thân tiên tử/Trường sử anh hùng lệ mãn khâm” (Sự nghiệp chửa thành quân sư đã sớm mất/Mãi khiến bậc anh hùng tiếc thương lệ đầm vạt áo)8. Cùng với võ tướng Triệu Tử Long, quân sư Gia Cát Lượng là một nhân vật có lẽ giành được cảm tình trọn vẹn nhất của cả tác giả lẫn độc giả. Độc giả Tam Quốc diễn nghĩa thậm chí có quyền nghĩ tới việc cho đây là cặp nhân vật lý tưởng trong bộ tiểu thuyết trường thiên này9. Tạm kết - Nhân vật sinh thành giữa dòng tự sự Phân tích nhân vật Khổng Minh cho thấy những mối quan hệ nhất định giữa sử và văn. Nhà nghiên cứu phê bình cần ý thức rõ bản thân mình đang tiếp xúc với một Khổng Minh trong khu vực nào - lịch sử, huyền thoại truyền khẩu hay văn chương? Và dù cho trong thực tế giao thoa và ảnh hưởng giữa các khu vực đó không phải khi nào cũng phân tách được cho rõ ràng, nhưng điểm có thể thống nhất là giờ đây khi gọi lên một cái tên “Khổng Minh” thì điều đơn giản là ta đang nói đến một hình tượng nhân vật - kẻ sinh thành giữa những dạng thức tự sự quen gọi là sử ký, truyền miệng, viết vào truyện, diễn nên kịch, quay thành phim Đặt vấn đề “Gia Cát Khổng Minh - Từ chính sử đến tiểu thuyết” của bài viết này thực ra chỉ là kết quả của một ý thức như vậy [8]. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Lê Thời Tân (2012), “Tào Tháo - Câu chuyện hình tượng tiểu thuyết và con người lịch sử”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 57(6), tr.3-8. [2]【晋】陈寿 著【南朝宋】裴松之 注, “三國志” (卷三十五 蜀书 五-诸葛亮传第五), 21/11/2009. [3] B.L. Riftin (2002), Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc (Bản dịch Phan Ngọc), Nxb Thuận Hoá - Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây. [4] 罗贯中 (1998), “三国演义”, 人民文学出版社. [5]毛宗纲, “读三国志法”, https://wenku.baidu.com/view/9f78854bcf84b9d528 ea7a65.html, 21/1/2019. [6] Lê Thời Tân (2011), “Lược sử sáng tác về đề tài Tam Quốc hay là một hình dung tự sự liên loại thể”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 27(4), tr.265-272. [7] 夏志清 (2001), “中国古典小说史论”, 江西人民出版社. [8] Lê Thời Tân (2010), “Đọc lại Quan Công”, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 26(4), tr.246-259. 8Đỗ Phủ viết Thục tướng (Thừa tướng nhà Thục) vịnh Khổng Minh: Tam cố tần phiền thiên hạ kế, Lưỡng triều khai tế lão thần tâm. Xuất sư vị tiệp thân tiên tử, Trường sử anh hùng lệ mãn khâm. Tạm diễn nghĩa: Ba lần đến nhà tranh vời hỏi kế sách bình thiên hạ, Hai triều sáng nghiệp tấm lòng của lão thần. Sự nghiệp chửa thành quân sư đã sớm mất, Mãi khiến hậu thế anh hùng tiếc thương lệ đầm vạt áo. Bài thơ vịnh sử viết năm 760 khi loạn An Lộc Sơn chưa dứt. Bài thơ được xem là viết khi thăm Đền thờ Vũ Hầu ngoại thành Thành Đô. Chúng tôi cứ tự hỏi không biết thi tác này (lưu truyền phổ biến nhờ việc có mặt trong biên tuyển thơ Đường rất phổ biến và dễ tìm - Đường thi tam bách thủ) có ảnh hưởng gì đối với tác giả tiểu thuyết Tam Quốc? Câu hỏi nhỏ này dường như cũng đã động chạm đến mối quan hệ tinh tế giữa thơ ca - lịch sử - tiểu thuyết. 9Triệu Vân trên thực tế đã trở thành tùy tướng của Khổng Minh. Khổng Minh trước sau giữ một mối cảm tình nồng hậu đối với viên tướng này. Trần thuật của tiểu thuyết cũng cho thấy Tử Long đáng gọi văn võ song toàn kiêm gồm trí dũng. Triệu cũng là một danh tướng đã để cho “nhân gian được thấy đầu bạc”, khác với phần đa những chiến tướng đã kết liễu đời mình ngoài cửa trận. Trong tiểu thuyết trần thuật về Triệu Vân và Gia Cát Lượng có thể nói dường như không có yếu tố gọi là “phúng dụ ngầm” (ironic).
File đính kèm:
- tu_tu_su_chinh_su_den_tieu_thuyet_dien_nghia_nhan_dien_hinh.pdf