Tình thái và các phương tiện biểu hiện tình thái trong án văn tiếng Việt

TÓM TẮT

Trên cơ sở khảo sát ngữ liệu thực tế và nền tảng lí thuyết của ngữ dụng học, bài viết nghiên

cứu các loại tình thái trong án văn và cách thức sử dụng chúng. Bài viết cũng chỉ ra các phương

tiện biểu hiện tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa, phân tích và khái quát tác dụng của nó

đối với hiệu quả giao tiếp của án văn tiếng Việt

pdf11 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 433 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Tình thái và các phương tiện biểu hiện tình thái trong án văn tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
ái Khung tình thái 
Không cam kết/ 
xác nhận tính chân 
thực của điều được 
nói 
Theo X (thì) [] 
X nói là/ trình bày/ cho 
là/ khai nhận/ khai 
báo/ 
Cam kết/ xác nhận 
tính chân thực của 
điều được nói 
 Sau khi, qua, căn cứ vào Hội đồng xét 
xử nhận định/thấy rằng 
Từ những căn cứ trên cho thấy, Hội đồng xét 
xử chấp nhận/không chấp nhận 
Do (nên) 
A có/không có căn cứ để chấp nhận 
A là phù hợp với 
A là có cơ sở 
A là đúng 
2.2.2. Phương tiện biểu hiện tình thái đạo nghĩa 
Người nói trong án văn là một tập thể nhân danh Nhà nước, đại diện cho pháp luật và 
người nghe, cũng chính là đối tượng được nói đến, là những công nhân và pháp nhân. 
Quan hệ giữa người nói với người nghe là quan hệ pháp luật với vai tác động và vai bị tác 
động. Vì vậy, án văn sử dụng những phương tiện biểu thị tình thái đạo nghĩa với mục đích 
ràng buộc về quyền và nghĩa vụ thực hiện một hành động nào đấy đối với người nghe. Mục 
đích này thể hiện trong phần “Quyết định” của án văn. 
Nói đến phương tiện biểu thị tình thái đạo nghĩa trong án văn, trước hết phải kể tới 
những vị từ tình thái như phải, được – hai vị từ tình thái thường xuyên xuất hiện trong án 
văn nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ thực thi hành động cho đối tượng. 
Vị từ tình thái phải thể hiện ý nghĩa tình thái về sự bắt buộc. Những phát ngôn sử 
dụng vị từ tình thái phải biểu hiện sự bắt buộc đối tượng được nói tới có trách nhiệm, 
nghĩa vụ thi hành một hành động hay một điều gì đó theo tiêu chuẩn pháp luật được quy 
định tại các điều luật. Ví dụ: 
(12) Ông Chủ tịch UBND Thị xã Tân An phải chịu 50.000đ án phí hành chính sơ thẩm. 
(Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 2584/2009/DS-ST ngày 
09/9/2009) 
(13) Ông X còn phải nộp tiếp 916.000 đồng tại thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh. 
(Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 176/2009/DSPT ngày 13/5/2009) 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 5 (2019): 69-79 
76 
Vị từ tình thái phải luôn đứng sau biểu thức chỉ đối tượng thực thi nghĩa vụ và đứng 
trước một vị từ hành động như: nộp, chịu, thi hành Và đôi khi, để nhấn mạnh đến nghĩa 
vụ ràng buộc, phải còn kết hợp với tổ hợp tình thái tính khác như: có nghĩa vụ, có trách 
nhiệm Ví dụ: 
(14) Nếu ông T, bà P không thực hiện nghĩa vụ trả nợ nêu trên, thì bà C và các thừa 
kế của ông Th là N.T.T, N.T.Th, N.T.P.N phải có trách nhiệm liên đới trả số tiền trên cho 
ngân hàng. 
(Tòa án Nhân dân huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 55/2009/DS-ST 
ngày 27/8/2009) 
Vị từ tình thái phải còn đi cùng với động từ “buộc” nhằm nhấn mạnh đến tính cưỡng 
bức của nghĩa vụ phải thực thi, như: 
(15) Buộc anh V.T.H phải trả cho chị H.T.M.A số tiền vốn vay và lãi là 11.716.000 
đồng (Mười một triệu bảy trăm mười sáu ngàn đồng).. 
(Tòa án Nhân dân thành phố Cần Thơ, Bản án số 09/2009/HNPT ngày 15/4/2009) 
Vị từ tình thái phải khi kết hợp với tác tử phủ định không thì lại mang một ý nghĩa 
tình thái khác là sự cho phép, ví dụ: 
(16) Án phí sơ thẩm các đương sự không phải chịu. 
(Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 89/2009/DS-PT ngày 11/3/2009) 
Vị từ tình thái được thể hiện ý nghĩa tình thái về sự cho phép nhằm tạo lập quyền cho 
đối tượng được nhắc đến, đối tượng có thể thực hiện hành động mà Tòa yêu cầu hoặc 
không. Vị từ hành động kết hợp với vị từ tình thái được thường thấy trong án văn là sở 
hữu, trừ, nhận lại, quyền, sử dụng, miễn. 
Ví dụ: 
(17) Bà T.T.K.C được sở hữu căn nhà số 286/60A, đường Cách Mạng Tháng Tám, 
phường Bùi Hữu Nghĩa – thành phố Cần Thơ sau khi thanh toán xong số tiền nêu bên trên 
cho bà N.T.C. 
(Tòa án Nhân dân tỉnh Bình Phước, Bản án số 18/2008/DS-PT ngày 29/12/2008) 
(18) Ông T được quyền đến thăm và chăm sóc con chung. 
(Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 1153/2008/DS-PT ngày 
22/9/2008) 
(19) Bà T.T.Y được miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm, không phải chịu án phí 
phúc thẩm. 
(Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 532/2008/DS-PT ngày 04/12/2008) 
Khi vị từ tình thái được có tác tử phủ định không đứng trước thì nó lại biểu hiện ý 
nghĩa tình thái về sự cấm đoán, ví dụ: 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Lệ và tgk 
77 
(20) Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông S, không ai được 
quyền ngăn cản. 
(Tòa án Nhân dân thành phố Cần Thơ, Bản án số 263/2008/DSPT ngày 20/10/2008) 
Bên cạnh đó, trong án văn còn sử dụng phương tiện tình thái khác là tổ hợp tình thái 
tính. Tổ hợp tình thái tính là những kết hợp từ mang ý nghĩa tình thái. Án văn sử dụng bốn 
tổ hợp tình thái tính: có trách nhiệm, có nghĩa vụ, có quyền, dành quyềncho,trong đó 
hai tổ hợp đầu có ý nghĩa tình thái bắt buộc, ví dụ: 
(21) Bà T.T.Y có nghĩa vụ giao trả cho bà L.N.N số tiền ½ giá trị đất tại thửa 242 là 
80.500.000 đồng và tiền giá trị căn nhà là 84.693.566 đồng. 
(Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 532/2008/DS-PT ngày 04/12/2008) 
(22) Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong 
việc quản lí giám sát các bị cáo trong thời gian thử thách. 
(Tòa án Nhân dân tỉnh Lâm Đồng, Bản án số 03/2009/HSST ngày 15/01/2009) 
Hai tổ hợp tình thái này cũng kết hợp với động từ buộc nhằm nhấn mạnh nghĩa vụ bị 
cưỡng bức thực thi, như: 
(23) Buộc ông N.V.N có trách nhiệm hoàn trả cho vợ chồng ông N.V.T và bà 
V.T.H.Đ số vàng đã nhận là 3,5 chỉ vàng 24k (98%) và tiền chênh lệch giá là 37.368.000 
đồng. 
(Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 123/2010/DS-PT ngày 
20/02/2010) 
Hai tổ hợp sau có ý nghĩa tình thái về sự cho phép, ví dụ: 
(24) Bà L.N.N có quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày án có hiệu lực 
pháp luật. 
(Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 532/2008/DS-PT ngày 04/12/2008) 
(25) Dành quyền khởi kiện cho bà N.T.C đối với bà T.T.K.C v/v “Đòi giá trị quyền 
sử dụng đất 104,56 m2” hiện do bà T.T.K.C làm nhà ở theo quy định chung. 
(Tòa án Nhân dân tỉnh Bình Phước, Bản án số 18/2008/DS-PT ngày 29/12/2008) 
Ngoài hai phương tiện trên, án văn còn thường xuyên sử dụng cấu trúc ẩn tình thái. 
Cấu trúc ẩn tình thái được hiểu là cấu trúc trong đó phương tiện ngôn ngữ biểu thị tình thái 
không xuất hiện (kí hiệu Φ thể hiện vị trí ẩn phương tiện biểu thị tình thái) nhưng vẫn 
mang ý nghĩa tình thái. Ý nghĩa tình thái mà những cấu trúc này thể hiện là ý nghĩa về sự 
bắt buộc. 
Cấu trúc: Buộc+ Φ vị từ hành động 
Những vị từ hành động thường xuất hiện trong cấu trúc này là: giao trả/ hoàn trả/ 
thanh toán/ bồi thường Ví dụ: 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 5 (2019): 69-79 
78 
(26) Buộc anh M, chị T Φ giao trả cho anh C, chị H 1.000.000 đồng tiền đất đã nhận 
và 60.000 đồng chi phí thẩm định. 
(Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 264/2009/DSPT ngày 27/7/2009) 
Cấu trúc chỉ gồm vị từ hành động như: nộp, chịu cũng mang ý nghĩa tình thái về 
sự bắt buộc, ví dụ: 
(27) Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ cấp phúc thẩm là 50.000 đồng, bà N Φ chịu. 
(Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 532/2008/DS-PT ngày 04/12/2008) 
(28) Ông N.A.T và bà L.T.Đ.P Φ nộp toàn bộ án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm 
là 17.834.000đ. 
(Tòa án Nhân dân huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 55/2009/DS-ST 
ngày 27/8/2009) 
Tóm lại, các phương tiện biểu hiện ý nghĩa tình thái đạo nghĩa trong án văn được 
tổng kết ở Bảng 2 sau đây: 
Bảng 2. Các phương tiện biểu hiện ý nghĩa tình thái đạo nghĩa trong án văn 
 Phương 
 tiện 
Ý nghĩa 
Vị từ 
tình thái 
Tổ hợp 
tình thái tính 
Cấu trúc ẩn tình thái 
Sự bắt buộc 
- Phải 
- Có trách nhiệm 
- Có nghĩa vụ 
- BuộcΦ + vị từ hành động 
- Φ + vị từ hành động 
Sự cho phép 
- Được 
- Không phải 
- Có quyền 
-Dành quyền cho 
Sự cấm đoán - Không được 
3. Kết luận 
Để xác lập quyền và ràng buộc nghĩa vụ thực thi hành động cho đối tượng tiếp nhận, 
trong án văn có hai loại tình thái: tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa. Tình thái nhận 
thức trong án văn có mặt chủ yếu ở hai phần “Nhận thấy” và “Xét thấy” với các kiểu ý 
nghĩa: Người nói không cam kết hay xác nhận tính chân thực của điều được nói ra, người 
nói xác nhận hoàn toàn tính chân thực của điều được nói ra dựa trên những bằng chứng có 
hiệu lực mạnh hoặc những cơ sở suy luận mà người nói có được. Hai kiểu ý nghĩa này 
được hiện thực hóa bằng những biểu thức ngôn ngữ cụ thể là các quán ngữ tình thái và 
khung tình thái. Loại tình thái thứ hai là tình thái đạo nghĩa. Tình thái đạo nghĩa xuất hiện 
trong phần “Quyết định” với kiểu ý nghĩa: Người nói cho rằng điều được nói tới là bắt 
buộc, là được phép hay được miễn trừ. Những phương tiện ngôn ngữ thể hiện tình thái đạo 
nghĩa trong án văn là những vị từ tình thái như: phải/không phải, được/không được; những 
tổ hợp tình thái tính như: có quyền lợi, có trách nhiệm, có nghĩa vụ, dành quyềncho; 
những cấu trúc ẩn tình thái như: buộc+ Φ vị từ hành động, Φ vị từ hành động. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Lệ và tgk 
79 
 Tuyên bố về quyền lợi: Các tác giả xác nhận hoàn toàn không có xung đột về quyền lợi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Cao Xuân Hạo. (1991). Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng (quyển 1). Hà Nội: NXB Khoa 
học xã hội. 
Nguyễn Văn Hiệp. (2008). Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp. Hà Nội: NXB Giáo dục. 
THE MODALITY AND THE MEANING OF MODALITY 
OF THE VIETNAMESES VERDICTS 
Nguyen Thi Le1*, Tran Hoang2 
1 Nguyen Hue University 
2 Ho Chi Minh City University of Education 
* Corresponding author: Nguyen Thi Le – Email: nguyenthilelq@gmail.com 
Received: 05/02/2019; Revised: 19/3/2019; Accepted: 10/4/2019 
ABSTRACT 
Based on the survey of the real linguistics data and in the context of pragmatics, this work 
studies the types of modality of Vietnamese verdicts and how to use them. The work also expresses 
the meaning of epistemic modality and deontic modality as well as analyzes and generalizes the 
communication effectiveness in Vietnamese verdicts. 
Keywords: The modality of the verdict, judgment, the linguistic in the verdict. 

File đính kèm:

  • pdftinh_thai_va_cac_phuong_tien_bieu_hien_tinh_thai_trong_an_va.pdf