Thi pháp lời văn nghệ thuật trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng - Nguyễn Mạnh Quỳnh

TÓM TẮT

Bài viết nghiên cứu việc tổ chức lời văn nghệ thuật trong các sáng tác của Vũ Trọng Phụng,

từ góc độ phong cách học cá nhân và đặc trưng của thể loại tiểu thuyết. Hiện thực - trào phúng là

nguyên tắc chủ đạo trong việc tổ chức lời văn trong các sáng tác của Vũ Trọng Phụng, đặc biệt là

trong các tiểu thuyết và truyện ngắn của ông. Nguyên tắc này được thể hiện trên tất cả các cấp độ,

từ cấp độ nhãn quan ngôn từ tiểu thuyết đến cấp độ hình thức nghệ thuật của lời văn. Đóng góp

của Vũ Trọng Phụng cho nghệ thuật trần thuật trong văn xuôi Việt Nam đầu thế kỉ XX thực sự to

lớn, thể hiện năng lực tìm tòi và sáng tạo có tính chất đột phá của một tài năng viết truyện

pdf13 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 272 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Thi pháp lời văn nghệ thuật trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng - Nguyễn Mạnh Quỳnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
hư sau: Dứt tình: 7 lần/130 
trang, Giông tố: 46 lần/314 trang, Làm đĩ: 24lần/184 trang, Lấy nhau vì tình: 39 lần/168 
trang, Trúng số độc đắc: 50 lần/306 trang. Điều này chứng tỏ lời nửa trực tiếp đóng vai trò 
khá quan trọng trong nghệ thuật trần thuật của Vũ Trọng Phụng. Lời nửa trực tiếp trong 
sáng tác của Vũ Trọng Phụng có chức năng tái hiện ý thức của nhân vật đồng thời với việc 
mô tả nhân vật cùng với những phân tích, bình luận của tác giả. Bên cạnh đó, nó còn thực 
hiện chức năng miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật trong sự đối thoại với các ý thức 
khác, kể cả tác giả. 
Nét độc đáo của nó là được tổ chức lại dưới cái nhìn “vô nghĩa lí” và bởi nguyên tắc 
chủ đạo của lời văn Vũ Trọng Phụng: lời văn trào phúng. Có nghĩa là nhà văn vừa tái hiện 
thế giới nội tâm của nhân vật vừa chen vào đó chất giọng hài hước, châm biếm của mình 
với mục đích cợt nhạo, chỉ trích, hoặc tố cáo, phản kháng... là chủ yếu. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 5 (2019): 5-9 
56 
Lời nửa trực tiếp trước hết nhằm tái hiện ý thức nhân vật đồng thời với miêu tả, bình 
luận về nhân vật của người kể chuyện. Ở dạng lời này, nhà văn vừa miêu tả nhân vật vừa 
tái hiện ý thức của nó đối với bản thân bằng ngôn ngữ giao hòa giữa lời nhân vật và lời của 
người kể chuyện. Xin trích một đoạn văn tái hiện ý thức của bà phó Đoan trong Số đỏ về 
việc cậu Phước trở chứng: 
“(...) Ông thầy số đã kêu số cậu Phước thọ lắm, hay là thầy số đoán nhảm? 
Ấy đó là những câu hỏi làm rối loạn cả khối óc bà mẹ, khiến bà đau khổ khó nghĩ. 
Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ. Nhất là lại có nuôi con cầu tự nữa mới biết lòng cha mẹ. 
Như bà phó Đoan nuôi con kể đã là cùng. Bà đã kiêng khem đủ thứ, và tránh những tiếng 
“quở quang” rất kĩ lưỡng cho cậu Phước, nào bán khoán, nào đội bát nhang, nào cúng, nào 
sớ tấu: thôi thì chẳng thiếu thứ gì nữa. Vậy mà bây giờ thốt nhiên cậu lại “thế” thì là bởi 
đâu? Hay đi cầu cứu sư cụ Tăng Phú chăng? Hay là mời ông đốc Trực Ngôn? Bà lo lắng 
nhìn cậu Phước ngồi tần ngần trên một cái bàn ở giữa nhà, rồi bà ra cửa sổ...” 
Những kết cấu “Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ. Nhất là lại có nuôi con cầu tự nữa 
mới biết lòng cha mẹ”, “thốt nhiên cậu lại “thế” thì là bởi đâu?” là tái hiện ý thức, ngữ điệu 
của bà phó Đoan trong lời của người kể chuyện giấu mình. Người kể ẩn mình đi trong 
những kết cấu ấy, trao quyền chủ thể lời nói cho nhân vật rồi lại giành quyền “đồng sở 
hữu” trong những kết cấu: “như bà phó Đoan nuôi con kể đã là cùng. Bà đã kiêng khem đủ 
thứ... Bà lo lắng nhìn...” để miêu tả nhân vật. Người đọc rất khó có thể quy lời nói ấy về 
cho đích xác cho một ai, chỉ biết rằng, trong một lời, có âm vang hai giọng: giọng bà phó 
băn khoăn, lo lắng, pha chút khoe mẽ và giọng người kể chuyện tinh nghịch, cợt nhạo, 
ngầm phơi bày tính hay ngụy biện, giả tạo, dối trá ở con người này. 
Một kiểu lời trực tiếp nữa là miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật trong sự đối thoại 
với các ý thức khác. M. Bakhtin gọi đây là những vi đối thoại hay lời tranh luận ngầm. 
Dạng tiêu biểu là những đoạn độc thoại nội tâm mà “Chất đối thoại thẩm thấu vào từng từ 
ngữ, gây ra bên trong nó một sự giằng co, ngắt lời nhau giữa các tiếng nói” (Bakhtin, 1992, 
tr.290). Theo chúng tôi, Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan chưa có ý thức sử dụng loại lời 
này như là một thủ pháp nghệ thuật. Người đi đầu có lẽ là Vũ Trọng Phụng, và sau đó Nam 
Cao chính là người sử dụng lời này rất thành công trong các tác phẩm của mình nhằm xây 
dựng hình tượng con người tâm lí. 
Những vi đối thoại – xin được gọi kiểu lời này là như thế – thường được sử dụng để 
miêu tả quá trình khủng hoảng, bi đát, vật vã của con người trước một tình huống tâm lí 
căng thẳng. Bakhtin đã phân tích rất hay những cơn khủng hoảng tâm lí của nhân vật 
Đôtxtôjêvxki thông qua những vi đối thoại; chẳng hạn đoạn độc thoại nội tâm của 
Raxkolnikov trong phần đầu tiểu thuyết Tội ác và trừng phạt: bao gồm cả mỉa mai, cay 
đắng, phẫn nộ, đau buồn, yêu thương, căm giận... Trong các tiểu thuyết của Vũ Trọng 
Phụng, có thể nhận thấy ông cũng thường sử dụng vi đối thoại – mặc dù còn ở mức độ – để 
khắc họa những giây phút nhân vật bị kích thích cao độ. Chẳng hạn, bản độc thoại nội tâm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Mạnh Quỳnh 
57 
của bà đồ Uẩn trong Giông tố khi đang từ địa vị “nào là điêu đứng không còn kiếm nổi hột 
gạo mà ăn, nào là sự mỉa mai chèn chế của người làng, nào là sự thờ ơ lãnh đạm của họ 
mạc, nào là những trận cãi nhau, chửi nhau om sòm...” bỗng nhiên thành nhạc phụ của một 
nhà tư bản giàu có: 
“Bà sung sướng vì tưởng Mịch đã bị hại một đời, mà hóa ra sung sướng một đời. Cái 
con người quyền thế và giàu có nhất tỉnh, mà ai cũng phải sợ, mà ai cũng không kiện nổi, 
nay mai sẽ đem vài chục cái xe tu bin về dạm hỏi con bà hẳn hoi. Rồi thì cả làng sẽ ngậm 
miệng như hến. Rồi thì sẽ vô phúc cho những đứa nào đã bảo bà là vô phúc, đến nỗi con 
gái bà bị hiếp dâm. Rồi thì khổ cho những đứa chê bai, khinh bỉ, cho những đứa đã làm 
nhục bà. Tuy bà không biết biên sổ nhưng bà cũng biên sổ ngay vào bụng: nào là con mẹ 
đám Nhen nói kháy bà ra sao, nào là con mẹ đĩ Tốp nói xấu bà ra sao, vân vân... Con gái 
bà lấy chồng giàu! Những đứa ấy rồi thì nhục với bà, rồi thì điêu đứng với bà.” 
Ở đoạn văn trên, ý thức của bà đồ đã đối thoại, giằng co, tranh luận với ý thức của 
một số nhân vật được nêu tên. (“Chẹp! Chẹp!!!...Rõ chém cha cái đời! Cho thế mới mát 
ruột con mẹ đồ Uẩn. Không thế thì không được hợm hĩnh những là giấy rách giữ lấy lề, 
những là dòng dõi thế gia!” là lời trực tiếp của một trong số các nhân vật nói kháy, nói mát 
bà đồ). 
Trong Trúng số độc đắc, việc Phúc trúng số mười vạn đồng đã làm kinh động cả xã 
hội, mà trước tiên là những người trong gia đình anh ta. Một cuộc đảo lộn ngôi thứ diễn ra 
một cách chóng vánh khiến người ta không thể không cân nhắc, đắn đo cách cư xử. Đây là 
những suy tính như thế của mẹ và vợ Phúc: “(...) Sau khi thấy cụ Phán ông bị mắng, người 
mẹ, người vợ càng hiểu rõ rằng từ nay ắt phải rất thận trọng trong sự thay đổi thái độ, phải 
làm thế nào cho cái khinh bỉ ngày trước với cái quý trọng bây giờ có được một cái cầu nó 
nối liền một cách kín đáo, cũng như mầu xám là cần cho sự dịu dàng của việc dung hợp 
trắng và đen, ấy thế mới khó, vì nhỡ ra thì có thể chỉ sai một li mà đi một dặm. Quý trọng, 
ừ thì quý trọng, nhưng phải ra sao cho khỏi mang tiếng nịnh thần? Vừa phải thôi ư, thì làm 
thế nào cho khỏi bị buộc là khinh nhờn như trước? Đó là sự gánh vác đàn bà khó lắm 
thay!” 
Trong đoạn lời này có sự tranh luận ngầm giữa ý thức của hai người đàn bà với ý 
thức của người đời (Quý trọng, ừ thì quý trọng, nhưng phải ra sao cho khỏi mang tiếng 
nịnh thần?), với ý thức của Phúc (Vừa phải thôi ư, thì làm thế nào cho khỏi bị buộc là 
khinh nhờn như trước?). Ở đây, lời nói là của người kể, nhưng ý thức và chủ thể lời nói 
vừa thuộc về mẹ Phúc, vừa thuộc về vợ Phúc và một người khác hàm ẩn. Cho nên, lời văn 
vừa mang âm sắc của tiếng cười mỉm báng bổ, vừa ẩn chứa nhiều “nỗi niềm” của nhân vật. 
Có thể tìm thấy khá nhiều đoạn có tính chất tranh luận như thế trong Lấy nhau vì tình 
(đoạn Liêm tự tranh luận với mình với ý thức của Quỳnh), trong Giông tố (tiêu biểu là các 
đoạn Mịch, Long tự vấn trong sự khủng hoảng tột độ sau vụ “dâm biến” của nghị Hách), 
trong Làm đĩ (đoạn độc thoại nội tâm của Huyền sau khi thất tiết với Lưu, khi bị chồng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 5 (2019): 5-9 
58 
phát giác ngoại tình). Chính những “vi đối thoại” như thế đã góp phần không nhỏ giúp nhà 
văn len lỏi, mổ xẻ những nỗi niềm sâu kín, những uẩn khúc, giằng co, cắn xé trong tâm lí 
con người. Chiều sâu trong tâm hồn nhân vật được nâng cao thêm một bước. 
3. Kết luận 
Tóm tại, những đóng góp của Vũ Trọng Phụng cho nghệ thuật trần thuật trong tiểu 
thuyết hồi đầu thế kỉ XX là rất to lớn, thể hiện năng lực tìm tòi và sáng tạo có tính chất đột 
phá của một tài năng tiểu thuyết xuất sắc. Khó có thể hình dung diện mạo của văn xuôi 
hiện đại Việt nam đầu thế kỉ trước mà khuyết vắng khuôn mặt của Thiên Hư Vũ Trọng 
Phụng. Nhà văn chỉ sống 27 tuổi đời ấy, bằng những nỗ lực sáng tạo của mình đã làm 
không ít bạn văn phải khâm phục, ngưỡng mộ, cả trước kia, hôm nay và mai sau... 
 Tuyên bố về quyền lợi: Tác giả xác nhận hoàn toàn không có xung đột về quyền lợi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Bakhtin, M. (1992). Lí luận và thi pháp tiểu thuyết. Hà Nội: Trường viết văn Nguyễn Du xuất bản. 
Diệp Quang Ban. (2000). Ngữ pháp tiếng Việt. Hà Nội: NXB Giáo dục. 
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi. (Chủ biên). Từ điển thuật ngữ văn học. Hà Nội: NXB 
Văn học. 
Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam. (1997). Lí luận văn học. Hà Nội: NXB 
Giáo dục. 
Vũ Trọng Phụng. (1998). Toàn tập. Hà Nội: NXB Hội nhà văn. 
Trần Đình Sử. (1998). Giáo trình dẫn luận thi pháp học. Hà Nội: NXB Giáo dục. 
Nguyễn Ngọc Thiện, Hà Công Tài. (2000). Vũ Trọng Phụng về tác gia và tác phẩm. Hà Nội: NXB 
Giáo dục. 
LITERARY STYLE IN VU TRONG PHUNG’S WRITINGS 
Nguyen Manh Quynh 
Hoa Lu University 
Corresponding author: Nguyen Manh Quynh – Email: nmquynh@hluv.edu.vn 
Received: 01/3/2019; Revised: 20/4/2019; Accepted: 15/5/2019 
ABSTRACT 
This article studies the literary style in the Vu Trong Phung’s works from the perspectives of 
the private writing style and the features of novel genre. Satire and reality is the fundamental 
principle in the discourse organization in the works by Vũ Trọng Phụng, especially in his novels 
and short stories. This principle is reflected in all levels: from the vision level of novel discourse to 
the level of artistic forms of language. Vu Trong Phung's contribution to the narrative art in 
Vietnamese proses in the early twentieth century is of great value, presenting the significant 
creativity of an outstanding talent. 
Keywords: literary style, discourse, artistic word, narrative, novel, private writing style. 

File đính kèm:

  • pdfthi_phap_loi_van_nghe_thuat_trong_sang_tac_cua_vu_trong_phun.pdf