Đặc điểm hình thái - cấu trúc của ẩn dụ tu từ trong thơ Xuân Quỳnh

TÓM TẮT

Ẩn dụ tu từ là một phương tiện đặc biệt trong xây dựng hình tượng nghệ thuật nhằm nâng cao hiệu

lực biểu đạt của ngôn ngữ, và đây cũng chính là phương thức tu từ thường gặp trong thơ Xuân

Quỳnh. Về mặt hình thái - cấu trúc, các ẩn dụ tu từ thường không đồng nhất về cấp độ và khác

nhau về tính chất trong kết cấu nội tại. Xét về mặt hình thái - cấu trúc, trong thơ Xuân Quỳnh có 2

nhóm ẩn dụ: Ẩn dụ tu từ có hình thái - cấu trúc là từ ngữ, ẩn dụ tu từ có hình thái - cấu trúc là kết

cấu chủ - vị hay phát ngôn - câu. Việc đi sâu nghiên cứu đặc điểm hình thái - cấu trúc của ẩn dụ tu

từ trong thơ Xuân Quỳnh sẽ giúp chúng ta tiếp cận một cách sâu hơn về phong cách nghệ thuật của

tác giả nữ này trong nền thơ Việt Nam hiện đại dưới góc nhìn ngôn ngữ học.

pdf7 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 232 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Đặc điểm hình thái - cấu trúc của ẩn dụ tu từ trong thơ Xuân Quỳnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
 được 
[11, tr 11] 
Hay trong bài Con tàu, tác giả đã viết: 
Tàu hãy mang giùm nhau 
Tình yêu và nỗi nhớ 
Đến một nơi rất xa 
Người yêu ta ở đó 
[9, tr48] 
Tàu trong câu thơ trên cũng không được sử 
dụng với nghĩa gốc (chỉ "phương tiện vận tải 
lớn và hoạt động bằng máy móc phức tạp"), 
mà đã được chuyển nghĩa chỉ người mang lại 
hạnh phúc, tình yêu thương, niềm vui đến cho 
mọi người. 
Thứ hai là con đường sử dụng các từ ngữ với 
vai trò là gốc (tạm gọi là "từ ngữ gốc") làm 
chất liệu, cơ sở để tạo ra những đơn vị định 
danh bậc hai bằng cách kết hợp với các đơn vị 
khác tạo thành một đơn vị có hình thái - cấu 
trúc là một từ phức hay một ngữ. 
Ví dụ: Thạch Sanh trong một bài thơ của 
Xuân Quỳnh không còn chỉ nhân vật cổ tích 
ngày nào, mà được dùng với nghĩa chuyển có 
tính chất lâm thời chỉ những chú bộ đội đánh 
giặc; Hay đại bàng không còn là "một loài 
chim ăn thịt cỡ lớn, cánh dài và rộng, chân có 
Lê Thị Như Nguyệt Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 29 - 34 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  | 32 
lông đến tận ngón, sống ở núi cao" trong 
truyện cổ tích nữa, mà đã là hình ảnh ẩn dụ 
chỉ máy bay hung hãn của giặc Mĩ trên bầu 
trời Tổ quốc: 
Con ngủ ngày trong tiếng bà vẫn kể 
Mơ thấy ban đêm, con vạc con cò 
Chú bê con đòi mẹ lái ô tô 
Chú Thạch Sanh bắn đại bàng bằng tên lửa 
[6, tr 61] 
... 
Căn cứ vào đặc điểm của các từ ngữ gốc được 
dùng làm ẩn dụ hóa, ta có thể phân loại các ẩn 
dụ tu từ phức có hình thái - cấu trúc là các ngữ 
này thành các tiểu loại khác nhau như sau: 
- Ẩn dụ tu từ phức có hình thái - cấu trúc là 
một danh ngữ. Kiểu ẩn dụ này được Xuân 
Quỳnh sử dụng nhiều nhất (264/543 lượt, 
chiếm 48,6%), ví dụ: 
Đất nước ngày sum họp 
Nơi đây, cầu nối nhịp, tay cầm tay 
[7, tr 68] 
Qua bao ngày lửa đạn 
Đất về với mùa xuân 
Như em về với anh 
Qua những ngày sóng gió 
[7, tr 91] 
- Ẩn dụ tu từ phức có hình thái - cấu trúc là 
một động ngữ. Kiểu này được sử dụng không 
nhiều (25/543 lượt, chiếm 4,6%), ví dụ: 
Tiếng đàn anh luyến luyến 
Nghe đầm ấm ngọt ngào 
[4, tr 52] 
Thương cây trẻ, đá rộng lòng cởi mở 
Hiểu đồi già, cây bén rễ sâu 
[6, tr 83] 
- Ẩn dụ tu từ phức có hình thái - cấu trúc là một 
tính ngữ. Đây là kiểu ẩn dụ được nhà thơ sử 
dụng ít nhất (7/543 lượt, chiếm 1,3%), ví dụ: 
Con chào mào ngọt giọng hót vang 
Vị thơm lự rơi rơi theo từng hạt 
[5, tr 44] 
Với cái gió làm chín lừ da mặt 
Mảnh đất cằn khoai sắn ít sinh sôi 
Tôi sẵn lòng đem hiến cả đời tôi 
Cho cát trắng và gió Lào quạt lửa 
[6, tr 26] 
Một số nhận xét 
- Ẩn dụ tu từ trên cơ sở đơn vị định danh gốc 
là từ ngữ chiếm một số lượng khá lớn trong 
tác phẩm thơ Xuân Quỳnh (79%). Đặc biệt, 
nhà thơ ưa dùng ẩn dụ tu từ có hình thái - cấu 
trúc là ngữ (42,9%). 
- Việc dùng ngữ để ẩn dụ hóa là do sự mở 
rộng định danh bậc một. Từ một từ đơn, với 
tư cách là đơn vị định danh gốc được nhà thơ 
chọn làm cơ sở, trung tâm để tạo ra các ngữ 
(đơn vị định danh bậc hai). Quá trình này có 
thể diễn ra theo hai con đường: Con đường 
chuyển nghĩa và con đường sử dụng các đơn 
vị gốc làm cơ sở để tạo ra những đơn vị định 
danh bậc hai bằng cách kết hợp với các đơn vị 
tạo thành một đơn vị có hình thái - cấu trúc là 
một từ phức hay một ngữ. 
- Ở ẩn dụ tu từ phức có hình thái - cấu trúc là 
một ngữ có tiểu loại nhỏ: Ẩn dụ tu từ phức có 
hình thái - cấu trúc là một danh ngữ, động 
ngữ và tính ngữ. Trong đó, tác giả thường 
xuyên sử dụng ẩn dụ tu từ phức có hình thái - 
cấu trúc là một danh ngữ (37%), tiếp đến là 
ẩn dụ tu từ phức có hình thái - cấu trúc là một 
động ngữ (4,6%), ẩn dụ tu từ phức có hình 
thái - cấu trúc là một tính ngữ (1,3%). 
Ẩn dụ tu từ trên cơ sở phát ngôn - câu 
Phát ngôn - câu cũng được Xuân Quỳnh chọn 
làm phương tiện để sáng tạo những ẩn dụ tu từ. 
Dựa vào tính chất đơn hay phức của khung vị 
ngữ, có thể phân loại các ẩn dụ tu từ có hình 
thái - cấu trúc là phát ngôn - câu trong thơ 
Xuân Quỳnh thành 2 tiểu loại: 
Ẩn dụ tu từ có hình thái - cấu trúc là phát 
ngôn - câu đơn 
Ẩn dụ tu từ có hình thái - cấu trúc là phát 
ngôn - câu đơn được cấu tạo trên cơ sở một 
khung vị ngữ, trong đó có một vị từ (động từ, 
tính từ) làm trung tâm vị ngữ. Đây là kiểu kết 
cấu được nhà thơ sử dụng nhiều nhất, ví dụ: 
Nhìn đâu cũng thấy nụ cười 
Hàng phi lao // hát những lời mát xanh 
 C V 
 [11, tr 28] 
Câu thơ trên có chủ ngữ là hàng phi lao, vị 
ngữ hát những lời mát xanh, vị từ hát là động 
từ làm trung tâm vị ngữ. 
Lê Thị Như Nguyệt Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 29 - 34 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  | 33 
Dế con // cũng biết đào hầm 
 C V 
Con cua chả ngủ canh phòng đạn bom 
 [6, tr 77] 
Cờ // đuổi hàng rào dây thép gai 
 C V 
Cờ ngự trên thành phố đổ 
[6, tr 41] 
Ở câu này, có thể thấy: chủ ngữ: dế con, cờ; vị 
ngữ: cũng biết đào hầm, đuổi hàng rào dây 
thép gai; vị từ trung tâm của vị ngữ: biết, đuổi. 
Ẩn dụ tu từ có hình thái - cấu trúc là phát 
ngôn - câu ghép 
Ẩn dụ tu từ có hình thái - cấu trúc là phát 
ngôn - câu ghép được cấu tạo trên cơ sở từ hai 
khung vị ngữ trở lên, có số lượng vị từ tương 
ứng làm trung tâm vị ngữ. Các khung vị ngữ 
không bao hàm lẫn nhau, liên hệ với nhau 
bằng những quan hệ ngữ pháp nhất định. Kiểu 
kết cấu này chiếm một số lượng rất nhỏ, trong 
các bài thơ của Xuân Quỳnh chỉ thấy xuất 
hiện 3/543 lượt, ví dụ: 
Trời đã hết những loài quỉ dữ 
Chim // liền bầy, cành // hết phải xa cây 
 C1 V1 C2 V2 
 [7, tr 63] 
Anh nằm trên bãi cát cửa sông 
Dòng nước lợ mang máu anh về bể 
Sóng//ve vuốt bàn chân gió//thì thầm rất khẽ 
 C1 V1 C2 V2 
 [6, tr 95] 
 Ngủ đi vầng trán yêu thương 
Bức tranh // đã ngủ mặt tường // lặng im 
 C1 V1 C2 V2 
[10, tr 79] 
... 
Như vậy, các ẩn dụ tu từ có hình thái - cấu 
trúc là phát ngôn - câu ghép được nhà thơ xây 
dựng trên cơ sở hai khung vị ngữ. 
3. Trong quá trình sáng tạo ngôn từ nghệ 
thuật ẩn dụ có thể được xem là phương tiện 
biểu cảm đặc biệt. Phép tu từ này xuất hiện 
trong thơ Xuân Quỳnh với nhiều kiểu loại đa 
dạng, góp phần thể hiện cá tính sáng tạo riêng 
của nhà thơ về mặt ngữ nghĩa. 
Đặc điểm hình thái - cấu trúc của ẩn dụ tu từ 
trong thơ Xuân Quỳnh được chia làm hai 
nhóm lớn: ẩn dụ trên cơ sở từ ngữ và ẩn dụ 
trên cơ sở phát ngôn - câu. Ẩn dụ tu từ trên cơ 
sở từ ngữ có một số lượng khá lớn trong thơ 
Xuân Quỳnh. Trong đó, ẩn dụ tu có hình thái 
- cấu trúc là ngữ được nhà thơ sử dụng nhiều 
hơn cả. Nhà thơ thường sử dụng ẩn dụ tu từ 
phức có hình thái - cấu trúc là một danh ngữ, 
tiếp đến là động ngữ và tính ngữ. 
Ẩn dụ tu từ trên cơ sở là phát ngôn - câu trong 
thơ Xuân Quỳnh thuộc về 2 tiểu loại: ẩn dụ có 
hình thái - cấu trúc là phát ngôn - câu đơn 
được nhà thơ sử dụng nhiều nhất, nhiều hơn 
hẳn so với ẩn dụ có hình thái - cấu trúc là phát 
ngôn - câu ghép. 
Nghiên cứu đặc điểm hình thái - cấu trúc của 
ẩn dụ tu từ trong thơ Xuân Quỳnh giúp chúng 
ta tiếp cận một cách chân thực phong cách 
nghệ thuật của nhà thơ dưới góc nhìn ngôn 
ngữ học. Để hiểu đầy đủ và sâu sắc hơn nữa 
về thơ Xuân Quỳnh, cần tiếp tục nghiên cứu ở 
những bình diện khác nữa như: thể thơ, nhịp 
thơ, các phương thức tu từ ngữ nghĩa theo 
quan hệ tổ hợp, các lớp từ ngữ, cú pháp thơ, 
đặc điểm ngữ nghĩa của ẩn dụ tu từ,... Về 
phương diện Phong cách học, cần tìm hiểu 
thêm về các phương thức tu từ khác, ngoài ẩn 
dụ, là: so sánh, phóng đại, tượng trưng, nói 
giảm, hoán dụ... Chúng tôi hi vọng sẽ có dịp 
tiếp tục xem xét các khía cạnh trên, để có cơ 
hội hiểu rõ hơn nữa về phong cách thơ của nữ 
tác giả với những bài thơ và có cuộc đời còn 
mãi được truyền tụng này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng Việt 
hiện đại, Nxb Đại Học Quốc Gia, H. 
[2]. Đinh Trọng Lạc (2005), 99 phương tiện và 
biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb GD, H. 
[3]. Lê Thị Như Nguyệt (2009), So sánh và ẩn dụ 
tu từ trong thơ Xuân Quỳnh, Luận văn Thạc sĩ, 
ĐH Sư phạm - ĐH Thái Nguyên. 
[4]. Xuân Quỳnh (1963), Tơ tằm - chồi biếc (in 
chung Cẩm Lai), Nxb Văn học, H. 
Lê Thị Như Nguyệt Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 29 - 34 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  | 34 
[5]. Xuân Quỳnh (1968), Hoa dọc chiến hào, Nxb 
Văn học, H. 
[6]. Xuân Quỳnh (1974), Gió Lào cát trắng, Nxb 
Văn học, H. 
[7]. Xuân Quỳnh (1978), Lời ru trên mặt đất, Nxb 
Văn học, H. 
[8]. Xuân Quỳnh (1982), Bầu trời trong quả 
trứng, Nxb Kim Đồng, H. 
[9]. Xuân Quỳnh (1984), Sân ga chiều em đi, Nxb 
Văn học, H. 
[10]. Xuân Quỳnh (1984), Tự hát, Nxb Tác phẩm 
mới, H. 
[11]. Lưu Khánh Thơ, Đông Mai (2003), Xuân 
Quỳnh - Cuộc đời và tác phẩm, Nxb Phụ nữ, H. 
SUMMARY 
MORPHOLOGIC FEATURES - STRUCTURES OF THE RHETORICAL 
METAPHOR IN THE POEMS OF XUAN QUYNH 
Le Thi Nhu Nguyet 
 TNU Publisher – Thai Nguyen University 
The rhetorical Metaphor is a special mean of building the artistic image to enhance the 
effectiveness of language expression and this is a common method of the rhetoric that we usually 
find in the poems of Xuan Quynh. The morphology – the structure, the rhetorical metarphor do not 
unify in the levels and are different from the nature of intrinsic structure. There are two groups of 
the metaphor in the morphology – the structure of Xuan Quynh’s the poems: The rhetorical 
metarphor has the morphology, the structure are words and the rhetorical metarphor has the 
morphology, the structure are the forms of the subject and predicate or speaking- sentence. 
Carefully studying the morphologic features- the structures of the rhetorical metarphor from Xuan 
Quynh’s the poems will help us to reach more deeply on the artistic style of the female author in 
the mordern Vietnamese poetry in the view of linguistics. 
Key words: metaphor, rhetorical metaphor, morphology – structure, poem, poetry xuan quynh
Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 45 - 51 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  | 35 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_hinh_thai_cau_truc_cua_an_du_tu_tu_trong_tho_xuan_q.pdf