Dấu hiệu tan rã ý thức hệ Nho giáo trong một số văn bản tuồng của Đào Tấn

Tóm tắt. Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng đối với văn hóa, văn học phương Đông trong đó

có Việt Nam. Lấy đề tài “quân quốc” làm trung tâm, tuồng là thể loại văn học phản ánh rõ

nét ý thức hệ Nho giáo. Đào Tấn là một nhà soạn kịch tài ba với nhiều cách tân trong tư

tưởng và nghệ thuật, đặc biệt trong các tác phẩm viết ở giai đoạn sau, sự phá cách trong tư

tưởng và nghệ thuật ngày càng mạnh mẽ. Đó là sự tan rã của “tam cương, ngũ thường”, sự

thay đổi cảm hứng chủ đạo từ “quốc sự” sang “thế sự”, sự thay đổi mẫu hình nhân vật lí

tưởng từ “người anh hùng” sang “con người hiện thực” và sự ảnh hưởng sâu sắc của Phật

giáo, Đạo giáo trong các sáng tác của ông.

pdf7 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 330 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Dấu hiệu tan rã ý thức hệ Nho giáo trong một số văn bản tuồng của Đào Tấn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
ác phẩm xoay quanh những bi kịch của con người trong thời đại, đó là bi kịch “tài cao, phận thấp,
chí khí uất” như Hoàng Phi Hổ, Triệu Khánh Sanh, Tiết Cương,. . . ;bi kịch tình yêu và hôn nhân
gia đình như Hoàng Phi Hổ - Giản Thị, Triệu Khánh Sanh – Kiều Quang,... Như vậy, vấn đề “trung
quân ái quốc” không còn là vấn đề chính trong một số văn bản tuồng của Đào Tấn. Cảm hứng chủ
đạo xoay quanh “quốc sự” chuyển sang cảm hứng chủ đạo xoay quanh “thế sự”.
60
Dấu hiệu tan rã ý thức hệ Nho giáo trong một số văn bản tuồng của Đào Tấn
Khảo sát các văn bản tuồng Tân dã đồn, Cổ thành, Hộ sinh đàn, Diễn võ đình, Trầm Hương
các, Hoàng Phi Hổ quá giới bài quan có thể thấy rõ các tác phẩm này không phản ánh chuyện cung
đình hay vấn đề “quốc sự” “quốc biến”, cũng không đặt ra những vấn đề quân quốc mà thường nêu
nên những vấn đề thế sự, thế thái nhân tình, đạo lí con người. Sự suy sụp của chế độ phong kiến
thường bắt đầu và kéo theo sự suy sụp và đảo lộn về cương thường, đạo lí. Khi mối quan hệ “quân
- quốc” bị phá vỡ, sự thống nhất giữa hai khái niệm đó chỉ còn làn niềm mơ ước, lí tưởng của tầng
lớp quan lại, sĩ phu phong kiến, Đào Tấn chuyển sự quan tâm sang những vấn đề có tính chất thế
sự : tình nghĩa anh em, tình cảm vợ chồng, tình yêu đôi lứa. . . vấn đề thế sự nổi lên như cảm hứng
chủ đạo trong các sáng tác của ông. Nhận xét về tuồng của Đào Tấn, nhà nghiên cứu Tất Thắng
viết “ở một số vở tuồng xuất sắc của Đào Tấn, chủ đề trung quân, cái chủ đề vốn có sức sống mãnh
liệt trong tuồng cổ, nhất là ở một số vở “tuồng thầy” như Tam nữ đồ vương, Sơn hậu. . . không còn
là chủ đề chúa tể nữa. . . trong những vở tuồng được sáng tác vào cuối đời của Đào Tấn, nhân vật
vua xuất hiện ít dần và hễ xuất hiện là những ông vua bạc nhược, thối nát, dâm dục, đốn mạt. . .
kiểu như Trụ vương. Thế giới quan lại triều đình đã được tái hiện trong tuồng Đào Tấn như một
thế giới ma quỷ lộn người, thế giới hỗn loạn đến kinh thường, khi mà mọi luân thường đạo lí đều
bị đảo ngược hoặc bị đưa ra để bôi nhọ” [6;257].
Cùng với sự thay đổi về đề tài và cảm hứng, nhân vật lí tưởng trong các tác phẩm của Đào
Tấn không còn là những người anh hùng xả thân vì nước hay tấm gương liệt nữ dùng cái chết để
thủ tiết như trong tuồng truyền thống. Nhân vật của ông là những “con người hiện thực” có tính
cách, nội tâm, tình cảm và phát triển theo sự tương tác với hoàn cảnh. Đào Tấn đã từ bỏ loại hình
“nhân vật mặt nạ” trong tuồng truyền thống để tiếp cận với loại hình “nhân vật tâm lí” gần với sân
khấu hiện đại. Khác với tuồng truyền thống thiên về mô tả hành động, có thể thấy trong các tác
phẩm của Đào Tấn có rất nhiều phân đoạn mô tả nội tâm của nhân vật. Đó là nỗi giằng xé trong
lòng Hoàng Phi Hổ khi đấu tranh giữa việc phản hay trung, nỗi uất hận khi gia đình tan nát và nuối
tiếc khi gặp vợ trong mơ (Hoàng Phi Hổ quá giới bài quan); đó là nỗi nghi ngờ của Kiều Quang
khi gần Bích Đào (Khánh Sanh đóng giả) và tâm trạng bối rối của người con gái đang yêu khi biết
người yêu hàng ngày luôn ở bên mình (Diễn võ đình), đó là nỗi lo của Lan Anh khi biết tin chồng
bị truy đuổi, nỗi đau khi sinh đẻ và niềm hạnh phúc khi được làm mẹ (Hộ sinh đàn), đó là nỗi
niềm day dứt khôn nguôi của hồn Đát Kỷ khi chưa làm trọn đạo hiếu với đấng sinh thành (Trầm
Hương các). . . Đào Tấn không áp đặt những lí tưởng cảo cả, những nhiệm vụ vĩ đại lên nhân vật
của mình cũng không dùng nhân vật để phát ngôn cho những giáo lí nào đó, ông cứ để nhân vật
sống trên sân khấu như sống giữa cuộc đời. Tuồng của Đào Tấn gắn với đề tài thế sự là những con
người hiện thực, đời thường.
Có thể thấy, trong một số tuồng bản của Đào Tấn, đề tài quân quốc, hình ảnh thiên tử và đạo
trung quân đã rất nhờ nhạt. Ngược lại, những mối quan hệ tình đời, lòng nhân ái giữa con người
được đề cập đến nhiều hơn.
2.3. Sự ảnh hưởng của Phật giáo, Đạo giáo
Cùng với sự nhạt dần của ý thức hệ Nho giáo là những dấu ấn khá đậm nét của tư tưởng
Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian trong các sáng tác của Đào Tấn.
Triết lí nhân quả và quan niệm về siêu sinh, tịnh độ của Phật giáo được bộc lộ trực tiếp
trong cốt truyện, trong cách xây dựng nhân vật và đặc biệt trong chính phát ngôn của nhân vật.
Cốt truyện tuồng của Đào Tấn mặc dù mượn từ Trung Hoa nhưng vẫn có sự tương đồng với mô
típ truyện cổ tích của Việt Nam “ở hiền gặp lành”, người thiện lương sẽ được trời giúp đỡ. Chính
vì thế nên Triệu Khánh Sanh trên đường bị truy đuổi mới có thể giả trang thành thị nữ Bích Đào
ở bên cạnh hôn thê Kiều Quang, Tiết Cương mặc dù bị Tiết Nghĩa phản bội nhưng lại được Ngũ
61
Đinh Thi Kim Thương
Hổ, Tần Hán cứu, Trần Thị Lan Anh sinh nở giữa rừng được thần hộ thai che chở, Hoàng Phi Hổ
lúc bị nguy nan được Giản Thị thác mộng báo tin, Đát Kỷ bị hồ ly chiếm xác được Phật Địa Tạng
cứu giúp. . . Triết lí nhân quả, yêu cái thiện trở thành niềm tin và sức mạnh tinh thần chi phối hành
động của các nhân vật.
Tư tưởng “vô vi” của Lão Tử được Đào Tấn tiếp thu một cách tự nhiên trong các văn bản
tuồng ở giai đoạn sau. Khái niệm “vô vi” trong Đạo đức kinh thường được hiểu là không nên làm
gì cả nhưng thật ra Lão Tử khuyên làm mà như không làm và không làm những điều không nên
làm. Ông cho rằng nước tuy mềm mại uyển chuyển nhưng có thể chảy vào bất cứ nơi nào và với
khối lượng lớn có thể làm nở cả đất đá. Như vậy vô vi có thể ví với cách hành xử của nước. Thuận
theo tự nhiên cũng chính là một cái đạo lớn mà con người phải tuân theo. Sự tồn tại, phát triển
và suy vong một triều đại là qui luật tự nhiên, con người không thể níu kéo hay thay đổi điều đó,
chi bằng thuận theo tự nhiên, “kẻ thức thời mới là trang tuấn kiệt”. Đứng trước nguy cơ sụp đổ
của triều Ân, mỗi nhân vật có cách ứng xử khác nhau, đại diện cho những thế lực khác nhau trong
xã hội: thái sư Văn Trọng đại diện cho các lão thần bảo thủ cố chấp một cách cực đoan, ôm lòng
Trung mù quáng mong cứu vớt lại giang sơn“quân hữu quá, thần tắc gián, gián nhi bất thính, dĩ
tử gián chi” (vua có lỗi thì tôi phải can, can không nghe lấy cái chết mà can); đội quân các tướng
Huỳnh Minh, Châu Kỷ, Ngô Nhượng, Long Hoàn đại diện cho quần chúng nhân dân, từ bỏ u quân
tìm minh quân “thề cùng nhau đánh Trụ đầu Chu”, Hoàng Phi Hổ, Hoàng Cổn đại diện cho thế lực
ưu tú nhưng bế tắc không tìm được lối thoát, được quần chúng giác ngộ. Thời đại trong tuồng của
Đào Tấn là thời đại của “những kẻ làm phản” như Triệu Khánh Sanh, Tiết Quý, Hoàng Phi Hổ.
Ta thấy trong đó sự ngưỡng vọng mà Đào Tấn dành cho những người anh hùng khởi nghĩa chống
Pháp và triều đình Huế tay sai ở nửa cuối thế kỉ XIX. Thuận theo tự nhiên “vô vi” như một đạo
lí hằng thường của vũ trụ, được Đào Tấn thể hiện trong lời nói của Nữ Oa “Vả Thành Thang bảo
đỉnh tương di” dự đoán trước số mệnh của triều Ân cũng như vương triều phong kiến thống trị
Việt Nam trong suốt mười thế kỉ.
3. Kết luận
Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến văn học Việt Nam trung cận đại, đặc biệt là đối với văn
học tuồng. Cùng với sự biến thiên của lịch sử, xã hội, thời đại là sự tự cách tân, tự làm mới mình
của nền văn học, văn hóa. Đào Tấn với các tác phẩm tuồng ở giai đoạn sau đã làm một cuộc “cách
mạng” thật sự trong nghệ thuật tuồng khi từ từ “rũ bỏ” ý thức hệ Nho giáo chi phối nền văn học
suốt mười thế kỷ, “giải thiêng” những hình tượng vốn là đặc trưng của tuồng để đưa nghệ thuật sân
khấu cung đình đến gần hơn với đại chúng, hướng mối quan tâm ra cái sinh thế đời thường và trả
văn học nghệ thuật về sống đúng nghĩa nội sinh của nó: văn học nghệ thuật là cuộc sống. Những
dấu hiệu tan rã ý thức hệ Nho giáo trong một số văn bản tuồng của Đào Tấn là một trong những
tiền đề cho sự đổi mới văn học nghệ thuật mạnh mẽ ở cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, là đà cho
cú lắc chuyển mình từ văn học trung cận đại sang văn học hiện đại, từ kịch truyền thống sang kịch
hiện đại. Vì những ý nghĩa đó, nghiên cứu giá trị văn bản tuồng của Đào Tấn càng trở nên cấp
thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hoàng Chương, 1978. Đào Tấn – nhà cách tân sân khấu tuồng. Kỉ yếu hội thảo “Đào Tấn –
nhà thơ, nghệ sĩ tuồng xuất sắc”, Ti Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, Bình Định, tr.386-400.
[2] Trần Đình Hượu, 1999. Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[3] Hoàng Châu Ký, 1978. Cái lớn của Đào Tấn. Kỉ yếu hội thảo “Đào Tấn – nhà thơ, nghệ sĩ
tuồng xuất sắc”, Ti Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, Bình Định, tr.360-366.
62
Dấu hiệu tan rã ý thức hệ Nho giáo trong một số văn bản tuồng của Đào Tấn
[4] Vũ Ngọc Liễn, 1978. Hoàng Phi Hổ quá Giới Bài quan, bước ngoặt tư tưởng của Đào Tấn.
Kỉ yếu hội thảo “Đào Tấn – nhà thơ, nghệ sĩ tuồng xuất sắc”, Ti Văn hóa và Thông tin Nghĩa
Bình, Bình Định, tr. 302 – 315.
[5] Vũ Ngọc Liễn, 2005. Đào Tấn - tuồng hát bội. Nxb Sân khấu, Hà Nội.
[6] Tất Thắng, 1978. Đào Tấn và vở tuồng “Hộ sinh đàn”. Kỉ yếu hội thảo “Đào Tấn – nhà thơ,
nghệ sĩ tuồng xuất săc”, Ti Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, Bình Định, tr.257-272.
[7] Tất Thắng, 2008. Đào Tấn – sự từ bỏ một đề tài, Đào Tấn – trăm năm nhìn lại. Nxb. Hội nhà
văn, Hà Nội, tr.159-174.
[8] Xuân Yến, 1994. Những vấn đề thẩm mĩ, đạo lí xã hội trong tuồng cổ. Nxb Sân khấu, Hà Nội
ABSTRACT
Disintegration signs of the Confucian ideology in Dao Tan’s Tuong
Dinh Thi Kim Thuong
Departmen of Organization and Staff, Hanoi Metropolitan University
Confucianism has deeply influenced the culture, literature Orient including Vietnam.
Themed “king and nation” centered, Tuong is the literary genre clearly reflects the Confucian
ideology. Dao Tan is a talented playwright with many ideas and innovation in the arts, especially
in the Tuong written at a later stage, the way out of ideological and artistic increasingly strong.
That was the disintegration of the “three moral line and five guide lines”, the change of the key
inspiration from “the nation” to “the person”, the changing pattern ideal character from “the hero”
to “the human” and the profound influence of Buddhism, Taoism.
Keywords: Confucianism, Tuong, Dao Tan.
63

File đính kèm:

  • pdfdau_hieu_tan_ra_y_thuc_he_nho_giao_trong_mot_so_van_ban_tuon.pdf