Tản Đà - Từ nhà Nho tài tử đến kiểu tác giả lãng mạn hiện đại
TÓM TẮT
Tản Đà (1889 - 1939), tác gia lớn, là hiện tượng văn học độc đáo và phức tạp vào bậc
nhất trong văn học Việt Nam cận hiện đại. Vị trí của ông trong lịch sử văn học dân tộc khó
có thể thay thế. Tản Đà - “con người của hai thế kỉ”- là gạch nối giữa hai thời kì văn học
cổ điển và hiện đại, người chuẩn bị cho sự ra đời của Thơ mới 1932 - 1945. Cũng có thể
xem ông là người mở đầu cho văn học Việt Nam hiện đại.
Đã có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu về Tản Đà, nhưng vẫn chưa đủ. Nghiên
cứu về Tản Đà, dù là ở phương diện con người hay sáng tác của ông, vẫn còn là nhu cầu
cần thiết và lâu dài. Bài viết này xin được giới thiệu một khía cạnh nghiên cứu Tản Đà từ
tác giả nhà nho tài tử đến kiểu tác giả lãng mạn hiện đại có thể làm tư liệu tham khảo giúp
cho việc dạy – học Tản Đà và Nguyễn Tuân trong nhà trường phổ thông.
y sự ẩn dật tới mức phủ nhận trách nhiệm đối với xã hội, bỏ tinh thần nhập thế, đứng hẳn về phía triết lí Phật hay Lão - Trang thì trốn đời, tránh đời mới có ý nghĩa đối lập với Nho giáo. Về tư tưởng, các nhà nho Việt Nam vốn không triệt để, nhất quán: đã chủ trương nhập thế nhưng lại ca ngợi cuộc sống nhàn tản, thanh cao; đã tránh đời nhưng lại không rứt được tấm lòng ưu ái vì nước, vì dân. Những người ẩn dật nhiều khi lấy triết lí Phật và Lão – Trang để biện chính, vẫn chỉ đối lập với con đường công danh bụi bặm, chứ không đối lập với Nho giáo. Có một mẫu nhà nho khác, như là gạch nối giữa nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật, đó là nhà nho tài tử. Nhà nho tài tử coi “tài” và “tình”, chứ không phải đạo đức, làm nên giá trị của con người. Đó là chỗ để họ tự phân biệt với người thánh hiền và họ lấy chỗ đó làm điều tự hào. Người “tài tử” quan niệm “tài” nhiều cách. Có thể là tài kinh luân như Nguyễn Công Trứ. Có thể là tài học vấn như Cao Bá Quát. Có thể là tài cầm quân, đánh giặc. Nhưng dù đã có tài như vậy, vẫn phải có thêm tài văn chương, tài cầm kì thi họa, những thứ nghệ thuật tài hoa, gắn bó với tình nữa, mới là người tài tử. Người tài tử mơ ước không chỉ là công danh phú quý, mà còn là sự nghiệp phi thường “Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc” (Nguyễn Công Trứ), “Thay con tạo xoay con khí số” (Cao Bá Quát). Trong điều kiện của chế độ chuyên chế, muốn có sự nghiệp tất phải qua con đường công danh làm theo mệnh vua. Dù có tài, dù kiêu ngạo, người tài tử cũng không thể qua mặt vua để có sự nghiệp phi thường được. Chỉ có điều “trí quân trạch dân” đối với họ là để trổ tài, thử tài, chứ họ không quan tâm nhiều đến nghĩa vụ, không coi đó là mục đích cuộc đời như nhà nho hành đạo. Đối với nhà nho tài tử có khi cả sự nghiệp cũng chỉ là thứ quà cho người đẹp, ấn phong hầu cũng chỉ để đẹp lòng người đẹp, để có người đẹp. Người tài tử tự thấy mình hơn người về tài và đương nhiên là có tài thì có tật, một cái tật dễ thương: đa tình. Có tài, họ ước ao gặp được vua hiền để có thể lập nên sự nghiệp. Đa tình, họ mong có hạnh phúc lớn là gặp được người đẹp. Gặp được vua hiền là khó, nhưng gặp được người đẹp còn khó hơn: Minh quân lương tướng tao phùng dị, Tài tử giai nhân tế ngộ nan (Nguyễn Công Trứ) Người tài tử muốn có sự nghiệp để xứng với tài và cũng muốn có mĩ nhân để xứng với tình. Người tài tử cũng là nhà nho, nhưng lại coi trọng cá nhân. Người tài tử quan niệm “đa tình” không chỉ là say mê sắc đẹp, mà hiểu điều đó theo nghĩa rộng là dễ xúc động, nhiều tình cảm. Nhưng vì nhiều tình cảm, họ lại dễ bị lôi cuốn vì sắc đẹp và có nhiều xúc động nhất đối với những người tài sắc. Điều đó không được lễ giáo phong kiến chấp nhận, đồng tình. Nho giáo không tán thành đa tình vì “tình” theo thánh hiền thường gắn liền với “dục” – không phải là tình dục theo kiểu người ta hiểu ngày nay – mà “dục”, sự ham muốn, say mê thường dẫn dắt, thường che lấp, thường làm thui chột cái “tính” tức là cái “tâm” đạo lí trời cho, có sẵn trong con người. Tình làm cho con người không nhất tâm theo lễ, không khép mình vào trật tự. 60 Cho nên Nho giáo khuyến khích một con người sống theo nghĩa lí khô khan, biết tiết dục, biết giữ tình cảm có mực thước và nhất là biết nghiêm cẩn giữ lễ. Trong tất cả thứ tình, thứ dục, thì Nho giáo sợ nhất là sắc đẹp đàn bà và tình yêu. Đó là thứ tình mạnh nhất, thứ dục thiết tha nhất, thứ đam mê da diết, dai dẳng, bất trị nhất. Cho nên đối với tình yêu, các nhà nho tỏ ra có nhiều nghi ngại, đặt ra nhiều lễ tiết, lo nghĩ, phòng phạm cẩn thận nhất. Họ cho sắc đẹp là một thứ “làm mất nước tan nhà”, một điềm “bất tường”. Gia đình xã hội đề cao người con gái nết na, đoan trang, đảm đang chứ không đề cao sắc đẹp. Họ đem “công, dung, ngôn, hạnh” đối lập với tài, sắc, tình và làm tiêu chuẩn để giáo dục con gái. Tuy trong tứ đức có “dung”, nhưng nữ dung không phải là làm cho đẹp, giữ sắc đẹp, mà giữ cho nét mặt dịu dàng, thuỳ mị, không kiêu kì; ăn mặc sạch sẽ, tề chỉnh chứ không cần đẹp. Không chỉ trau chuốt, làm dáng, mà cả trang điểm son phấn nữa cũng ở ngoài nữ dung. Nho giáo đặt ra nhiều lễ tiết ngăn cản con trai con gái gặp gỡ trò chuyện với nhau, đặt ra nhiều lời giáo huấn ngăn cấm con gái say mê văn chương, nghệ thuật, đặt ra nhiều nghi thức cho hôn lễ nhằm làm cho đôi vợ chồng mới cưới biết họ lấy nhau để làm nhiệm vụ với gia đình, ăn ở với nhau theo nghĩa, đối xử với nhau theo lễ. Vợ chồng phải biết “kính nhau như khách” chứ không phải yêu nhau say đắm. Không phải nhà nho không biết sắc đẹp, không chấp nhận một thứ tình nào. Trai tài gái sắc chỉ là lời khen ngợi xứng đôi vừa lứa khi cả hai bên đều trọn vẹn đức hạnh trung hiếu, đảm đang. Chế độ phong kiến nghi ngại tài tình, chèn ép người thị tài, đa tình, cho nên muốn sống theo tài tình, người tài tử luôn luôn phải chống lại sự gò bó của lễ giáo, sự khắt khe của tư tưởng Nho giáo. Trong lịch sử không ngớt vang lên những lời than vãn “tài tử đa cùng”, “con tạo ghét tài, ghen sắc”, “tài mệnh ghét nhau”, “tạo vật ghét sự trọn vẹn”. Dù than vãn, dù uất ức, nhà nho tài tử cũng không bao giờ dám chống lại chế độ chính trị - xã hội, chưa bao giờ dám chống ý thức hệ nho giáo. Tản Đà là người mơ ước làm “người học trò của Khổng Phu Tử ở Á Đông”, đến già vẫn day dứt về nỗi chưa làm tròn sứ mệnh trời giao “đem thiên lương của nhân loại” “xuống thuật cho đời hay”. Nhưng Tản Đà là nhà nho tài tử, tự coi mình là có tài và đa tình. Ông tự phụ về tài văn chương: Xuống ngọn bút mưa sa, gió táp Vạch câu thơ quỷ thảm, thần kinh Ở hạ giới không phải nhiều người hiểu được giá trị của văn chương Tản Đà nhưng trên tiên giới thì: Trời lại phê cho văn thật tuyệt, Văn trần được thế chắc có ít (Hầu Trời) Nhìn vào ảnh mình, Tản Đà tự trào một cách duyên dáng: Người đâu cũng giống đa tình, Tưởng là ai, lại là mình với ta Tản Đà sinh ra và lớn lên trong lúc xã hội tư sản đã quy định vận mệnh con người. Phận nam nhi tang bồng là chi, Chữ trượng phu ý khí nhường ai. Non sông thề với hai vai, Quyết đem bút sắt mài lòng son. Đó là một sự nghiệp cá nhân và dựa vào tài văn chương. Dù có muốn đua chen trong doanh hoàn thì người trượng phu không chịu nhường ai cũng chỉ có “Quyết đem bút sắt mà mài lòng son”. Nhưng ở vào thời đại con người đã trở nên thiết thực, văn chương, dù là “văn chương nết 61 đất, thông minh tính trời”, cũng không đủ xiêu lòng một cô gái không đến nỗi bắc bậc kiêu kì! Số phận người tài tử không được tạo hoá ưu đãi hơn. Tản Đà không như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, nhưng cũng không còn được chiêm ngưỡng, tán thưởng bằng. Trong cái xã hội san bằng đi nhiều sự cách biệt “không ai toàn tài mà cũng không ai đến vô tài”, Tản Đà không kiêu ngạo như Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát. Tuy đa tình nhưng cũng không quá khó tính đến mức cố chấp: Chưa qua biển rộng khôn là sóng, Trừ đến non vu chẳng có mây Đối với mĩ nhân, ông cũng đã dễ tính hơn nhiều. Quy luật phát triển của người tài tử trong xã hội phong kiến là đi đến ngông cuồng, ít nhiều mang tính chất phá phách. Tản Đà cũng đi đến ngông cuồng. Nhưng cái ngông cuồng của Tản Đà hiền lành, ít chống đối hơn. Thời đại, cuộc sống xã hội tư sản, giai cấp và hoàn cảnh riêng làm cho con người cuả ông tài tử vấp váp, không phát triển theo hướng thị tài, ngông nghênh, phá phách, mà theo hướng đa tình và cuối cùng phóng túng, hưởng lạc. Tản Đà là nhà nho mà không phải nhà nho chính thống. Ông là nhà nho tài tử, cuối mùa sống trong một môi trường khác trước: xã hội tư sản. Với hai điều vừa nói ở trên chúng ta hiểu rõ hơn Tản Đà đã mang cái gì mới vào văn học lúc đó, tìm ra chỗ nhất quán giữa mâu thuẫn chồng chất trong hiện tượng Tản Đà, hiểu rõ hơn vì sao lúc đầu ông được hoan nghênh nhiệt liệt, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn ông lại bị công chúng bỏ quên. Với tất cả những cái đó chúng ta lại hiểu thêm một mặt khác của con đường phát triển có quy luật từ văn học trung đại chuyển sang văn học hiện đại [2, 175] 3. Trong lịch sử văn học Việt Nam, Tản Đà là nhà văn lớn với phong cách độc đáo và tài hoa. Vị trí của Tản Đà trong lịch sử văn học dân tộc khó có thể thay thế. Tản Đà sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời, giao thời giữa hai thời đại: trung đại và hiện đại, giao thời giữa hai phạm trù văn hoá, văn học: văn hoá, văn học cổ truyền và văn hoá, văn học hiện đại, giao thời giữa hai loại hình tác giả văn học: nhà nho tài tử và nhà văn lãng mạn hiện đại... Ông là con người của hai thế kỉ, là nhà nho tài tử “đem văn chương bán phố phường” trong xã hội tư sản. Tản Đà trở thành chiếc cầu nối giữa hai phạm trù văn hoá, văn học, giữa hai loại hình tác giả. Không có Tản Đà, điều dễ thấy là giữa hai phạm trù văn hoá, văn học, giữa hai loại hình tác giả ấy sẽ có sự đứt đoạn. Trên con đường đi đến hiện đại, văn hoá, văn học Việt Nam tiếp thu ảnh hưởng từ nhiều nguồn nhất là ảnh hưởng từ phương Tây, nhưng không thể không có nguồn truyền thống. Trách nhiệm và vinh dự này thuộc về Tản Đà. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Mạnh Bổng, (lời giới thiệu), (1952), Tản Đà vận văn toàn tập, NXB Hương Sơn, Hà Nội. 2. Phan Cự Đệ - Trần Đình Hượu - Nguyễn Trác - Nguyễn Hoành Khung - Lê Chí Dũng - Hà Văn Đức, (2000), Văn học Việt Nam (1900 -1945), NXB Giáo dục, Hà Nội. 62 3. Trịnh Bá Đĩnh - Nguyễn Đức Mậu, tuyển chọn và giới thiệu, (2003), Tản Đà về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 4. Trần Đình Hượu, (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam Trung cận đại, NXB Văn hoá - thông tin, Hà Nội. 5. Nguyễn Khắc Xương, (2002), Tản Đà toàn tập, NXB Văn học, Hà Nội. 6. Nguyễn Khắc Xương, (1995), Tản Đà thơ và đời, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội. 7. Nguyễn Khắc Xương, (1996), Tuyển tập Tản Đà, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội.
File đính kèm:
- tan_da_tu_nha_nho_tai_tu_den_kieu_tac_gia_lang_man_hien_dai.pdf