Khát vọng canh tân đất nước của Nguyễn Bá Trác trong "Hạn mạn du kí"

TÓM TẮT

Trong những năm đầu thế kỉ XX, nhằm góp phần thực hiện sứ mệnh duy tân đất nước,

Nguyễn Bá Trác đã lên đường sang các nước châu Á cầu học. Hành trình của Nguyễn Bá Trác kéo

dài và gặp nhiều khó khăn. Tuy giấc mơ cứu nước không thành nhưng ông đã sống hết mình với

khát vọng và hoài bão của tuổi trẻ. Điều đó được ông gửi gắm vào thiên du kí sinh động Hạn mạn

du kí. Tác phẩm đã giúp người đọc cảm nhận được phần nào tấm lòng yêu nước của Nguyễn Bá

Trác ở giai đoạn còn là “khúc sông trong” trong cuộc đời nhiều khúc đoạn của ông. Bài viết tìm

hiểu hai khía cạnh trong khát vọng canh tân đất nước của ông, đó là mong mỏi có một thể chế

chính trị tiến bộ và đi liền với đó là một xã hội phát triển phồn vinh

pdf13 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 187 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Khát vọng canh tân đất nước của Nguyễn Bá Trác trong "Hạn mạn du kí", để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
giúp 
Nhật Bản phát triển bền vững: “Dù đến bực hạ lưu như con ở nhà hàng cơm, vú sữa các 
nhà thường, cũng là có giáo dục, có thể làm hết bổn phận mà mưu sinh. Ôi! Cả nước không 
có một người hư sinh, cho nên phú cường là tại đó” (Nguyen, 2007, p.139). Cuối cùng ông 
đúc kết: 
Nói tóm lại, trong nước Nhật Bản, không có một người nào là không học vấn; không có một 
chỗ nào là không có nhà trường. Trong ba cái cù lao nho nhỏ mà có đến hai vạn nhà trường. 
Những người đã vào trường đại học, chuyên môn, thực nghiệp, cao đẳng, đã có tư cách hoàn 
toàn, cũng là nhờ giáo dục từ trường tiểu học. Cho nên nước Nhật Bản được phú cường, 
người ta không quy công cho tướng sĩ trong những buổi tranh chiến “Nhật – Trung”, và 
“Nhật – Nga”, mà quy công cho các giáo sư ở trường tiểu học. (Nguyen, 2007, p.129). 
Trong khi các nước khác ở châu Á còn ngụp lặn trong những cuộc đấu tranh chống 
ngoại xâm thì Nhật Bản đã tạo nên những kì tích. Một trong những thành tích lớn lao của 
Nhật Bản lúc bấy giờ là phổ cập giáo dục. Chính hành động tiến bộ này đã kích thích sự 
ham học hỏi của mỗi người dân, đó là cơ sở cho sự phát triển thần kì mang tên Nhật Bản. 
Từ việc so sánh với nước Nhật, tác giả đặt ra câu hỏi nhức nhối về thực trạng cùng 
quẫn của nước ta: “Tôi chép đến đây lại nghĩ đến tình cảnh sinh hoạt của người mình. Nào 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 17, Số 4 (2020): 598-610 
608 
phải thổ địa không bằng người, nào phải sinh vật không bằng người; thế mà sinh kế cùng 
quẫn là tại vì đâu?”. (Nguyen, 2007, p.139). Và câu trả lời của Nguyễn Bá Trác cũng thật ý 
nghĩa và chuẩn xác: 
Vì người trong xã hội không biết thông công dịch sự, quá nửa số người trong nước là những 
kẻ vô nghiệp ăn không. Thường thấy có nhà một người ra làm việc quan, hay đi buôn bán, 
mỗi tháng lương bổng hay sinh lợi từ 10 đồng bạc trở lên cho đến 100 đồng trở xuống, thì cả 
nhà không còn ai chịu chân lấm tay bùn, cứ ngồi không mà ăn trắng mặc trơn gọi là “thực 
thiên lộc. (Nguyen, 2007, p.139). 
Ý thức phản biện đã giúp Nguyễn Bá Trác nhìn thấy rõ những “tệ nạn” đang tồn 
đọng trong một quốc gia có đầy đủ những điều kiện để phát triển nhưng không thể phát 
triển được. Điều nghịch lí ấy làm cho những trí thức yêu nước như ông không khỏi trăn 
trở, băn khoăn. Là một công dân không thờ ơ trước những vấn đề cấp bách của dân tộc, 
trong du kí của mình, Nguyễn Bá Trác luôn mạnh dạn bày tỏ quan điểm, đề xuất ý kiến, 
đưa ra giải pháp nhằm góp phần làm thay đổi thực trạng đất nước. 
Đi là phương thức giúp Nguyễn Bá Trác trang bị cho mình một thế giới quan mới 
mẻ, giúp nhìn rõ thực trạng của Việt Nam trong mối tương quan với Nhật Bản. Bằng nỗ 
lực của mình, ông muốn góp phần nhỏ bé vào công cuộc “cải tạo phương thức tư duy”, 
giúp người Việt Nam có cái nhìn thoáng mở, nhận thức được những ưu việt của văn hóa 
phương Tây và học hỏi họ để phát triển như Nhật Bản đã từng làm. Đánh giá về đóng góp 
của Nguyễn Bá Trác trong phong trào Đông Du, Phạm Hoàng Quân từng viết: 
Nếu xem học vấn là một nhu cầu mang tính nền tảng trong việc khai mở dân trí, những 
người nối dài phong trào Đông Du ít khi được nhắc đến nói trên đã để lại cho chúng ta rất 
nhiều, ngoài những giá trị trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến sự canh tân đất nước sau 
này còn ẩn chứa những bài học về nghị lực cầu tìm tri thức và tinh thần học thuật không biên 
giới, có thể nói còn hơn cả người nay ở giá trị gợi mở, đem đến cho môi trường học thuật 
luồng gió mới. Nhưng tất cả chỉ mới bắt đầu. (Pham, 2014) 
Tuy có lúc Nguyễn Bá Trác hơi cực đoan, nhưng ta hiểu đằng sau sự cực đoan ấy là 
một tấm lòng luôn hướng về quê hương đất nước. Với những trang ghi chép tỉ mỉ về cuộc 
sống, sinh hoạt nơi xứ người, Nguyễn Bá Trác góp phần làm cho bức chân dung tự họa của 
ông và thế hệ trí thức giàu lòng yêu nước như ông càng thêm rõ nét. Rong rủi khắp nơi để 
thu lượm kiến thức làm hành trang nhằm góp một phần bé nhỏ vào công cuộc “khai dân 
trí” để “chấn dân khí” và “hậu dân sinh”. Tiếp nối hành trình dấn thân hành đạo của các 
nhà Nho đi trước như Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Lộ 
Trạch... Nguyễn Bá Trác và thế hệ trí thức tân tiến như ông tiếp tục công cuộc phá vỡ 
thành trì của những lề thói phong kiến lạc hậu, lỗi thời, đang là lực cản lớn cho sự tiến bộ 
xã hội, từ đó làm tiền đề cho dân tộc Việt Nam từng bước thoát khỏi sự đô hộ của 
phương Tây. 
Ở phương diện sử liệu, Hạn mạn du kí là minh chứng sống động cho một thời kì lịch 
sử nhiều biến động của xã hội Việt Nam nói riêng và Đông Á nói chung những năm đầu 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Võ Thị Thanh Tùng và tgk 
609 
thế kỉ XX. Tác phẩm ghi chép tỉ mỉ từng chi tiết hoàn cảnh, sự kiện chính trị trên mỗi 
chặng đường mà tác giả đi qua. Hơn hết là số phận mong manh đầy bi thương của những 
thân phận con người trong hoàn cảnh chiến tranh de dọa thường xuyên. Tác phẩm cũng để 
lại cho người đọc nhiều trăn trở về sự lựa chọn đầy khó khăn của thế hệ thanh niên đương 
thời. Có người chọn theo con đường xuất dương để thực hiện lí tưởng cứu quốc, nhưng 
cũng có người chấp nhận làm tay sai cho giặc quả thật là một thời kì đầy “bấn loạn”, con 
người bị quay cuồng trong cơn lốc chiến tranh. 
Về phương diện văn học, tác phẩm có nhiều đóng góp vào quá trình hiện đại hóa nền 
văn học nước nhà. Trước hết, đó là một thiên kí sự hấp dẫn giúp người đọc mở rộng tầm 
nhìn. Sau nữa là góp phần giúp cho một thể loại văn học vốn được xem là “chiếu dưới”, 
“cận văn học” xác lập chỗ đứng trong dòng chảy của nền văn học hiện đại, làm cho đời 
sống văn học trở nên phong phú, hấp dẫn hơn. Du kí viết về thế giới nói chung và Hạn 
mạn du kí nói riêng còn mang “sứ mệnh” của quá trình giao lưu văn hóa, trong đó nổi bật 
là hành trình đi tìm những tư tưởng mới gắn liền với công cuộc duy tân đất nước. 
3. Kết luận 
Với những hải trình hàng vạn dặm, Hạn mạn du kí đã chiếm lĩnh một không gian 
nghệ thuật rộng lớn, đặt ra những vấn đề quan trọng đối với công cuộc duy tân ở Việt 
Nam. Tuy nhiên, cái làm nên sức nặng cho du kí này chính là những trang ghi chép nặng 
trĩu tâm tư của Nguyễn Bá Trác: “Thế giới như ngày nay, phong trào cạnh tranh càng ngày 
càng kịch. Đại trượng phu sinh ở thời, cũng nên đi cho cùng bốn bể, học cho khắp năm 
châu, thu lấy mây Mĩ mưa Âu mà tẩm nhuận cho thiên hạ” (Nguyen, 2007, p.181). Nó là 
minh chứng cho khát vọng vươn lên để tự khẳng định mình của một dân tộc phương Đông 
vốn nhỏ bé đang chịu sự thống trị của ngoại bang. Đi và chứng kiến một thế giới khác lạ 
rộng lớn hơn để mở rộng tầm mắt, để nhìn lại chính mình và thấy cần thiết phải thay đổi. 
Hạn mạn du kí nói riêng và du kí Quốc ngữ viết về thế giới nói chung “đòi hỏi người viết 
cả vốn tri thức, yêu cầu công việc, ý chí của người ham hoạt động, ham xê dịch và điều 
kiện, khả năng kinh phí. Đặt trong bối cảnh văn hóa – xã hội đương thời thì các du kí này 
quả đã mở ra những chân trời nhận thức mới, đưa lại niềm phấn khích bởi những trang ghi 
chép, miêu tả sống động của người trong cuộc, người trải nghiệm, chứng nghiệm” 
(Nguyen, 2011, p.633). 
 Tuyên bố về quyền lợi: Các tác giả xác nhận hoàn toàn không có xung đột về quyền lợi. 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 17, Số 4 (2020): 598-610 
610 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Nguyen, D. N. (2001). Vietnamese narrative prose of the medieval period [Van xuoi tu su Viet Nam 
thoi trung dai]. Episode II. Hanoi: Education Publishing House. 
Pham, T. N. (1965). New and simplified compilation of Vietnamese historical literature [Viet Nam 
van hoc su gian uoc tan bien]. Episode 3. Saigon: Quoc hoc tung thu Publishing House. 
Pham, H. Q. (2014). Dong Du – a point of view [Dong Du – mot goc nhin]. Tuoi Tre online, 
January 30, 2014. Retrieved September 20, 2019 from: https://tuoitre.vn/dong-du---mot-goc-
nhin-591749.htm 
Tran, T. S. (2012). Ho Truong memorabilia [Ki vat Ho Truong]. Retrieved September 20, 2019 
from: 
https://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=18147. Post 
date: March 13, 2012. 
Nguyen, H. S. (Selection, introduction) (2007). Viet Nam travel writing, Nam Phong magazine 
1917 – 1934 [Du ki Viet Nam, Tap chi Nam Phong 1917-1934]. Episode I. Hochiminh City: 
Tre Publishing House. 
Nguyen, H. S. (2011). Travel writing of Vietnamese writing about other countries and their 
contributions to the modernization of Vietnamese prose in the nineteenth and early twentieth 
centuries [Du ki cua nguoi Viet Nam viet ve cac nuoc va nhung dong gop vao qua trinh hien 
dai hoa van xuoi tieng Viet giai doan the ki XIX - dau the ki XX. In Modern East Asian 
literature from a comparative perspective [trong sach Van hoc can dai Dong A tu goc nhin 
so sanh] (Đoan Le Giang editor). Hochiminh City: Tre Publishing House. p.632-645. 
Nguyen, T. (1986). Profession stories [Chuyen nghe]. Hanoi: Tac pham moi Publishing House. 
NGUYEN BA TRAC’S DESIRE TO RENEW THE COUNTRY IN “HAN MAN DU KI” 
Vo Thi Thanh Tung*, Dang Phan Quynh Dao 
Thu Dau Mot University, Vietnam 
*Corresponding author: Vo Thi Thanh Tung – Email: thanhtung2212@yahoo.com 
Received: December 02, 2019; Revised: February 11, 2020; Accepted: April 18, 2020 
ABSTRACT 
In the early years of the twentieth century, in order to contribute to the realization of the 
country's renovation mission, Nguyen Ba Trac went to other Asian countries to learn how. Nguyen 
Ba Trac's journey was long and difficult. Although his dream of liberating the country was not 
fulfilled, he lived his life with the aspirations and ambitions of youth. These were reflected in his 
vivid travel writing “Han man du ki”. The work has helped readers feel partly the patriotism of 
Nguyen Ba Trac at the stage of so-called "a clear river" in his multi-stage life. The article explores 
two aspects of his desire to reform the country: to have a modern political ideology accompanied 
by a prosperous developed society. 
Keywords: renew; to learn; Han man du ki; Nguyen Ba Trac 

File đính kèm:

  • pdfkhat_vong_canh_tan_dat_nuoc_cua_nguyen_ba_trac_trong_han_man.pdf