Vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều từ câu 499 đến câu 524 trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) - Từ góc nhìn văn hóa

TÓM TẮT

Miêu tả chân dung nhân vật là một trong những bút pháp nghệ thuật chủ yếu của thể loại truyện

Nôm. “Truyện Kiều” là một truyện Nôm tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam. Trong “Truyện

Kiều” có nhiều chân dung nhân vật, được chia thành nhân vật chính diện, nhân vật phản diện và

thậm chí cả nhân vật trung gian (Hoạn Thư). Có thể nói, “Truyện Kiều” đi theo khuynh hướng nghệ

thuật chính thống nên ở đây xuất hiện bút pháp phác họa và ngôn ngữ ít nhiều có tính chất ước

lệ, công thức, có sử dụng điển tích, điển cố, khi miêu tả chân dung nhân vật. Nhưng ở một số

phương diện, Nguyễn Du đã vượt lên trên khuôn mẫu cổ điển để tạo nên những chân dung nhân

vật sinh động, đa dạng. Trong đó, nhân vật Thúy Kiều là một minh chứng tiêu biểu. Khi khắc họa

chân dung Thúy Kiều, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đã thể hiện khuynh hướng tâm lí hóa ngoại

hình và hơn thế nữa là khuynh hướng thân phận hóa phẩm cách nhân vật. Trong khuôn khổ bài

viết này, chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều từ góc nhìn văn hóa (cụ thể là

văn hóa ứng xử giữa Thúy Kiều và Kim Trọng) trong đoạn thơ từ câu 499 đến câu 524 của “Truyện

Kiều” – Nguyễn Du.

pdf5 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 255 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều từ câu 499 đến câu 524 trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) - Từ góc nhìn văn hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
y Kiều là con gái đầu của gia đình Vương Viên 
ngoại. Vào ngày tết Thanh minh, cả ba chị em Thúy 
Kiều (Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Quan) đi chơi xuân. 
Trên đường trở về, Thúy Kiều gặp mộ Đạm Tiên – 
một người con gái đẹp nhưng có số phận hẩm hiu, 
Thúy Kiều đã rỏ nước mắt khóc thương cho người 
nằm dưới mộ. Điều đó chứng tỏ, Thúy Kiều là một cô 
gái đa sầu, đa cảm. Sau đó, họ tình cờ gặp Kim Trọng 
– bạn học của Vương Quan: “Hài văn lần bước dặm 
xanh/ Một vùng như thể cây quỳnh cành giao”. Nhác 
thấy Thúy Kiều, Kim Trọng đã cảm mến: “Người quốc 
sắc, kẻ thiên tài/ Tình trong như đã, mặt ngoài còn e”. 
Sau buổi gặp gỡ đó, Kiều vừa thương thầm nhớ trộm 
chàng Kim, vừa mang trong mình một dự cảm không 
lành: “Người đâu gặp gỡ làm chi/ Trăm năm biết có 
duyên gì hay không?”. Vì lưu luyến, nhớ thương người 
trong mộng nên Kim Trọng đã tìm nhà trọ học gần 
nhà Vương Viên ngoại. Cùng với thời gian, tình cảm 
ấy tiến triển đến mức hai người cùng thề nguyền, ước 
hẹn với nhau: 
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Đoạn thơ trích dẫn nói về cách ứng xử của Thúy Kiều 
đối với Kim Trọng trong đêm tình tự. Đọc kĩ đoạn thơ, 
độc giả sẽ thấy thêm một khía cạnh nữa ở cô Kiều rất 
61KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
đáng nể trọng. Đó là, cho dù rất yêu quý Kim Trọng, 
nhưng Kiều luôn luôn ý thức được “đạo tòng phu” 
của người phụ nữ xưa. Điều này, có thể xuất phát 
từ việc cả hai đều là con nhà gia giáo nên tình cảm 
Kim-Kiều vừa sâu sắc, vừa mặn mà song không hề lả 
lơi, ong bướm. Hoặc cũng có thể vì cách ứng xử khéo 
léo của Thúy Kiều đối với Kim Trọng mà cả hai vẫn 
giữ được sự tôn trọng, dù sau này họ có gặp lại nhau 
trong những cảnh huống rất khác biệt. 
Trong đêm khuya tình tự, sau khi Kiều chơi đàn cho 
Kim Trọng nghe, chàng Kim đã ngắm nhìn nàng say 
đắm. Chuyện gì đến ắt cũng là điều dễ hiểu. Song, 
khi Kiều cảm nhận được sự quá giới hạn của người 
yêu: “Sóng tình dường đã xiêu xiêu/Xem trong âu 
yếm có chiều lả lơi”, nàng đã hết sức nhẹ nhàng, tế 
nhị trong lời lẽ giãi bày tâm sự. Nàng cho rằng, đó là 
“trò chơi” không lấy gì làm quan trọng, chẳng đáng 
quan tâm, vả lại chúng mình còn bao điều muốn nói 
mà chưa nói được. Hơn nữa, hai người dẫu sao cũng 
đã hẹn ước trăm năm ghi tạc, chuyện đó đợi đến khi 
hai người thành vợ chồng diễn ra cũng chưa muộn.
Như vậy, chữ “tòng phu” xuất hiện trong câu thơ: 
“Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu” được hiểu là 
theo chồng. Đây là một trong ba điều mà người phụ 
nữ phải tuân theo của Nho giáo: “Phụ nhân hữu tam 
tòng chi nghĩa, vô chuyên dụng chi đạo, cố vị giá 
tòng phụ, kí giá tòng phu, phu tử tòng tử” (Người đàn 
bà có cái nghĩa phải theo ba điều mà không có cái lẽ 
(đạo) làm theo ý mình, cho nên khi chưa lấy chồng 
thì phải theo cha, khi đã lấy chồng thì theo chồng, 
và khi chồng chết thì theo con). Ở đây, nói “đạo tòng 
phu” tức là nói đạo làm vợ. Vì luôn ý thức được điều 
này, nên Kiều luôn lấy các tấm gương của các “bậc 
bố kinh” để giữ gìn bản thân, không sống buông thả, 
giữ được cái trinh tiết của một đời người. Còn làm 
theo thói tà dâm của trai gái “Ra tuồng trên bộc trong 
dâu” thì kể làm gì! Chính vì điều này, cho nên sau này 
khi “phẩm tiên đã bén tay phàm” Mã Giám Sinh thì 
Kiều có phần ân hận: “Nhị đào thà bẻ cho người tình 
chung”. Qua đó, ta có thể thấy “Đạo tòng phu” mang 
dấu ấn của văn hóa Nho giáo. Tuy nhiên, đến “Truyện 
Kiều” của Nguyễn Du, nó đã được Việt hóa và là cơ cở, 
nền tảng để đảm bảo gạt bỏ mọi mối nghi ngờ, gắn 
kết tình cảm vợ chồng sâu đậm.
Để tăng thêm sức thuyết phục cho lời nói của mình, 
Kiều đã đưa ra câu chuyện về mối tình của Trương 
Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh: “Ngẫm duyên kì ngộ 
xưa nay/ Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi – Trương”. Câu thơ 
có sử dụng điển tích “Thôi – Trương”. Theo Hội chân 
kí, vào năm Trinh Nguyên nhà Đường, có Trương Sinh 
người tuấn tú, hòa nhã đến chơi chùa Phổ Cứu, gặp 
lúc Thôi phu nhân và con gái là Thôi Oanh Oanh cùng 
đến xin trọ ít ngày để đi Trường An. Đôi trai tài, gái 
sắc đã gặp nhau và đi lại ân ái với nhau ở mái tây chùa 
Phổ Cứu. Ít lâu sau, Trương Sinh đi Trường An dự thi, 
rồi ở lại kinh và quyết tuyệt tình với Thôi Oanh Oanh, 
lấy cớ là tài đức mình kém; trong khi Oanh Oanh vẫn 
mong nhớ chàng, ý tình rất thắm thiết. Sở dĩ, mối tình 
đẹp như mơ, được người đời ngưỡng mộ ấy ấy bị tan 
vỡ cũng chỉ bởi vì:
Mây mưa đánh đổ đá vàng,
Quá chiều nên đã chán chường yến anh.
Trong khi chắp cánh liền cành,
Mà lòng rẻ rúng đã đành một bên.
để rồi đến nỗi:
Mái tây để lạnh hương nguyền,
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.
Với lời lẽ ngọt ngào, Thúy Kiều nói tiếp với Kim Trọng:
Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,
Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
Thúy Kiều đã kể toàn bộ câu chuyện xảy ra với Thôi 
Oanh Oanh và lấy đó làm bài học cho bản thân mình. 
Đồng thời, nàng cũng hi vọng, Kim Trọng cũng hiểu 
thêm cho nỗi lòng của Kiều. Trong đoạn thơ, Thúy 
Kiều không ở vào cái hoàn cảnh của Thôi Oanh Oanh, 
chuyện phụ bạc, ruồng rẫy và hổ thẹn chưa xảy ra, 
chuyện “giữ giàng” (giữ gìn, phòng bị cẩn thận) đang 
còn ở hiện tại nên cái việc “gieo thoi” (ném con thoi, 
chỉ việc người con gái biết giữ mình để bảo toàn tiết 
hạnh) cũng ở thời “tương lai”. Thật là ổn thỏa. Câu thơ 
thật là ý nhị. Bút pháp của nhà thơ Nguyễn Du thật là 
tuyệt diệu! Thúy Kiều mượn ngay lời của Oanh Oanh 
để kết luận về Thôi Oanh Oanh, mà khỏi phải nói về 
mình nữa, vì cái gương đã rõ lắm rồi, đã đủ hùng hồn 
để vạch cho hai người cái đường sáng sủa nên theo, 
không cần phải nói: “Thiếp sẽ hết sức cự tuyệt” mà 
thực ra là cự tuyệt một cách chắc chắn và khôn khéo 
– cái khôn khéo của một con người “Thông minh vốn 
sẵn tính trời”. 
Một lần nữa, ta hãy đọc lại toàn bộ đoạn thơ thì thấy 
trong suốt ngần ấy câu, Thúy Kiều không hề trực tiếp 
cự tuyệt Kim Trọng mà chỉ dẫn điển tích cũ để cho 
Kim Trọng hiểu cái “đạo” phải theo là của chung cho 
tất cả mọi người chứ không chỉ của riêng Thúy Kiều. 
Không chống cự, mà trái lại, Kiều còn vuốt ve và hứa 
hẹn với Kim Trọng những điều thật là dễ thương:
62 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
- Vẻ chi một đóa yêu đào,
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.
- Vội chi liễu ép hoa nài,
Còn thân ắt lại đền bồi có khi!”
Thật là một lời hứa hẹn chan chứa tình âu yếm, dịu 
dàng, đầy rẫy sự vuốt ve an ủi, nhưng thực là vẫn 
“đoan chính” mà cũng vẫn “dễ nghe” như chính 
chàng Kim phải công nhận:
Thấy lời đoan chính dễ nghe,
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.
Như vậy, có thể thấy, Thúy Kiều không chỉ được miêu 
tả là người con gái có nhan sắc rực rỡ: “Một hai nghiêng 
nước nghiêng thành/Sắc đành đòi một, tài đành họa 
hai” mà nhan sắc ấy cũng góp phần làm nổi bật vẻ đẹp 
trong tâm hồn, phẩm cách của nàng. Đoạn thơ trên đã 
phần nào cho người đọc thấy sự thánh thiện, vẻ đẹp 
tinh khiết, phẩm cách trong sáng, cách ứng xử khéo 
léo, thông minh của Kiều đối với người yêu để vừa 
bảo toàn được tiết hạnh của người con gái vừa không 
làm tổn hại lòng tự trọng của người đàn ông. 
3. KẾT LUẬN
Đã có rất nhiều cách tìm hiểu khác nhau về vẻ đẹp của 
nhân vật Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn 
Du. Bài viết của chúng tôi chỉ là một gợi ý nhỏ trong 
việc tiếp cận vẻ đẹp ấy để góp phần làm hoàn thiện 
thêm thế giới tâm hồn nhân vật Thúy Kiều. Thực ra, 
cách tiếp cận vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều từ góc 
nhìn văn hóa không phải là quá mới lạ, tuy nhiên cái 
mới ở đây là chúng tôi đã mạnh dạn đi sâu vào phân 
tích, tìm hiểu vẻ đẹp của nhân vật ở một đoạn thơ 
tiêu biểu cho việc giữ gìn tiết hạnh của người phụ 
nữ theo quan niệm xưa. Có ở trong hoàn cảnh của 
nhân vật Thúy Kiều, người đọc mới thấy hết được sự 
khéo léo, tài tình của Kiều trong việc sử dụng ngôn 
từ, viện dẫn các điển tích, điển cố văn học, để làm 
“vừa lòng” người yêu đồng thời không làm tổn hại 
đến nhân phẩm của mình. Đó phải chăng cũng là cái 
“tài” của đại thi hào Nguyễn Du?./. 
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Nguyên Cẩn (2015), Tiếp cận Truyện Kiều từ góc 
nhìn văn hóa, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
2. Trịnh Bá Đĩnh (chủ biên), Nguyễn Hữu Sơn, Vũ 
Thanh (1999), Nguyễn Du – về tác gia và tác phẩm, 
NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Trần Công Đường (2011), Truyện Kiều kể lại, NXB 
Văn học, Hà Nội.
4. Nguyễn Thạch Giang (1999), Truyện Kiều, NXB Hà Nội.
5. Lê Bá Hán (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc 
Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 
Hà Nội.
6. Đặng Thanh Lê (1999), Truyện Kiều và thể loại truyện 
Nôm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Thiệu, Đào Duy Đạt (Biên dịch) (1996), 
Từ điển điển cố Trung Hoa, NXB Văn hóa – Thông tin. 
THUY KIEU’S BEAUTY IN THE TALE 
OF KIEU FROM LINE 499 TO LINE 524: 
AN ANALYSIS FROM THE CULTURAL 
PERSPECTIVE
TRAN THI THU HIEN
Abstract: Description of character portrait 
is one of the major artistic style of the genre 
Nom. “Truyen Kieu” is a Nom typical story in 
Vietnamese medieval literature. In “Truyen 
Kieu” there are many portraits of characters, 
divided into protagonists, villains and even 
intermediary characters (Hoan Thu). It can 
be said, “Truyen Kieu”has a tendency to 
followorthodox art trends so here appears 
sketch style and the language is more or less 
conventional, formulated with the use of 
classic and historical references, etc. when 
depicting characterportrait. But in some 
respects, Nguyen Du surpasses most classic 
molds to create vivid and variouscharacter 
portraitsamong which the character of Kieu 
is a typicaltestament. As portraying Thuy 
Kieu, Nguyen Du showeda tendency todepict 
mentality through appearance and even more 
than that he inclined. In the scale of this article, 
we are only going to figure out the beauty of 
the character Kieu - only from the cultural 
perspective (in the verse from line 499 to line 
524) of “Truyen Kieu”.
Keywords: perspective, character, Truyen Kieu, 
cultural, beauty.

File đính kèm:

  • pdfve_dep_cua_nhan_vat_thuy_kieu_tu_cau_499_den_cau_524_trong_t.pdf