Sự độc đáo của không gian nghệ thuật trong các sáng tác của Lỗ Tấn

TÓM TẮT

Trong sự nghiệp sáng tác của Lỗ Tấn, cảm quan về không gian luôn gắn liền với cảm quan về con

người, cuộc đời và xã hội, gắn liền với mơ ước, lý tưởng và chủ nghĩa hiện thực mà nhà văn hằng

theo đuổi. Bài viết nghiên cứu không gian nghệ thuật trong các sáng tác của Lỗ Tấn dựa trên hai

thể loại không gian chính là không gian tự nhiên và không gian xã hội, làm rõ những đặc điểm của

hiện thực xã hội và quan niệm về cuộc sống đương thời của nhà văn, từ đó góp phần làm nổi bật

sức cuốn hút nghệ thuật độc đáo của phong cách sáng tác Lỗ Tấn.

pdf7 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 390 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Sự độc đáo của không gian nghệ thuật trong các sáng tác của Lỗ Tấn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
 nghĩa địaĐây là không 
gian cụ thể, hoặc có thể nói là không gian cục bộ 
trong các sáng tác của Lỗ Tấn, là nhân tố quan trọng 
để Lỗ Tấn triển khai các tình tiết trong câu chuyện.
- Không gian quán trà, quán rượu
Quán trà và quán rượu là hai không gian xuất hiện liên 
tục trong các tác phẩm như “Khổng Ất Kỷ”, “Thuốc”, “A 
Q chính truyện”, “Phong ba”, “Ngày mai”, “Trong quán 
rượu” để lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho người đọc. 
Có thể thấy, quán trà, quán rượu mang đầy đủ đặc 
trưng không gian sinh sống của con người tại các đô 
thị nhỏ trong xã hội Trung Quốc thời cận đại, là địa 
điểm tập trung bàn luận chuyện đời, chuyện người
của cư dân. Trong những năm đầu của thế kỷ 20 đó, 
cho dù là khu vực kinh tế phát triển như Giang Nam 
hoặc chậm phát triển như vùng Tứ Xuyên, hoặc vùng 
biên thùy xa xôi hẻo lánh, đều thấy xuất hiện quán 
trà, quán rượu. Nhà phê bình văn học Dương Nghĩa 
cũng chỉ ra: “Trong xã hội cũ của Trung Quốc, văn hóa 
quán trà, quán rượu hết sức thịnh hànhVăn hóa “Lỗ 
trấn” mà Lỗ Tấn viết, đa phần chính là văn hóa quán 
trà, quán rượu, cũng giống như các nhà văn phương 
Tây khi viết về văn hóa, thì luôn thấy xuất hiện cảnh 
56 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
vũ hội, quán cà phê, sa lông đó chính là văn hóa của 
họ”(杨义,1998). Vì thế, quán trà, quán rượu xuất 
hiện trong sáng tác của Lỗ Tấn trở thành một không 
gian rất đỗi tự nhiên, như mặc nhiên nó phải như vậy. 
Quán trà trong tác phẩm “Thuốc” cũng là một không 
gian như thế. Đây là nơi mà các tình tiết của câu 
chuyện được bổ sung, triển khai rộng khắp, và cũng 
là nơi mà hình tượng nhân vật được bộc lộ một cách 
rõ ràng hơn. Trong những cuộc nói chuyện tại quán 
trà đó, lão Hoa Thuyên là một người lắng nghe chân 
thành, còn đao phủ Khang đại thúc - một kẻ dã man, 
ngu muội lại trở thành người kể chuyện có uy quyền, 
và quần chúng trở thành người ủng hộ những giọng 
điệu, lời lẽ của gã đao phủ đại diện cho thế lực đang 
nắm quyền điều hành đất nước, cùng đưa ra nhận 
định Hạ Du là “đồ điên cuồng”. Từ đây, sự đánh giá 
đối với người cách mạng Hạ Du đã được đóng khung, 
đồng thời, quan niệm về hiệu quả thần kỳ chữa khỏi 
bệnh nan y của chiếc bánh bao thấm máu người cũng 
được tuyên truyền rộng khắp quần chúng nhân dân. 
Không gian quán trà làm nổi bật hàm ý đau xót của 
tác giả trước căn bệnh nan y - “tâm bệnh” của quốc 
dân một thời tăm tối.
Quán rượu là nơi có chức năng giải trí và tiêu khiển 
tại các thị trấn nhỏ, nơi mà cuộc sống người dân đa 
phần không giàu có, nhưng vẫn có nhu cầu giao lưu, 
giải trí với chi phí thấp sau những giờ làm việc, họ tìm 
đến không gian này như một nơi đáp ứng đầy đủ các 
tiêu chí đó, và đây cũng là nơi thể hiện rõ tâm thế của 
xã hội và quần chúng đương thời. Trong tác phẩm 
“Khổng Ất Kỷ”, quán rượu Hàm Hanh chính là một nơi 
như thế, một nơi mà những con người có thu nhập 
thấp tìm cách giết thời gian của mình. Là một người 
trí thức nửa vời, Khổng Ất Kỷ có cái buồn của người 
nghèo, có tri thức của kẻ sĩ, lại có nỗi niềm cay đắng 
của kẻ không gặp thời và không có đất dụng võ. Cũng 
chính trong một hoàn cảnh như thế, Khổng Ất Kỷ trở 
thành chủ đề đàm tiếu của khách trong quán rượu 
hàng ngày, và bi kịch của nhân vật này cũng đến từ 
miệng của những con người này. Trong tiểu thuyết 
“Ngày mai”, quán rượu Hàm Hanh lại là nơi để say của 
lão Củng. Việc làm cho khách say là một trong những 
chức năng quan trọng của quán rượu. Hiện thực cuộc 
sống đầy áp bức, bất công, đen tối làm cho nhiều con 
người dưới đáy xã hội lựa chọn uống say như một 
hoạt động thường ngày trong cuộc sống, nhằm làm 
cho họ tạm quên đi những đau khổ, buồn đau đang 
trĩu nặng, thế nhưng đối với chị Tư Thiện, ngày mai 
vẫn là khổ đau, và đối với lão Củng, ngày mai vẫn phải 
uống say, và ngày mai dường như là một sự trông 
đợi mỏi mòn, nhưng sau tất cả, người đọc không thể 
thoát khỏi cái cảm giác cô đơn và tuyệt vọng. Đó là 
sự cô đơn tuyệt vọng của người đang say hay là tình 
cảnh có thực của người đang tỉnh? 
- Không gian nghĩa địa
Trong sáng tác của Lỗ Tấn, không gian nghĩa địa 
được hiện ra như là một nơi đầy tử khí, là tượng 
trưng cho kết cục bi thảm của bi kịch con người. 
Không gian nghĩa địa cũng luôn được Lỗ Tấn khắc 
họa hết sức nổi bật, ví dụ như trong “Thuốc”. Khi 
mua được “thuốc” - bánh bao thấm máu người về 
trị bệnh cho con trai mà không có hiệu quả, thần 
chết đã mang tiểu Hoa Thuyên đi như một tất yếu, 
thì cảnh tượng nghĩa địa cũng được hiện ra với một 
vẻ thê lương như nó phải có. “có một con đường 
mòn cong vẹo ở giữa chia làm hai: Nghĩa địa tử tù 
và những người chết trong tù ở bên trái, nghĩa địa 
người nghèo phía bên phải. Mộ hai bên xếp chồng 
lên nhau, giống như bánh bao nhà giàu ngày chúc 
thọkhông gian chung quanh đều lặng ngắt như 
cái chết.” Nghĩa địa, nơi tập trung bình đẳng của 
những người xa lìa cõi thế, vì thế, mới có cảnh mẹ 
của tiểu Hoa Thuyên gặp mẹ của Hạ Du tại đây, nơi 
mà những người chết trước nằm đợi người chết sau 
một cách lặng lẽ, giống như Hạ Du hi sinh trước, và 
rồi tiểu Hoa Thuyên cũng phải nằm xuống mộ. Do 
đó, xét theo góc độ nhất định, đây cũng là không 
gian có tính liên tục xuyên suốt trong tác phẩm, 
mang theo tính bi kịch mạnh mẽ. Hai con người kết 
thúc số phận theo hai cách khác nhau, nhưng khi 
ánh dương gian kết thúc với họ, thì đều nằm chung 
trong một không gian như thế “chỉ cách nhau có 
mỗi một lối đi nhỏ”. Là người cách mạng, Hạ Du gánh 
vác trọng trách cứu vớt những người dân dưới đáy 
xã hội như gia đình Hoa Thuyên, cha mẹ của tiểu 
Hoa Thuyên lại tin rằng, dùng máu của Hạ Du có thể 
chữa được bệnh cho con mình, và cuối cùng cả hai 
cùng xuống mộ. Cái kết cục bi thảm đó diễn ra tại 
không gian nghĩa địa như một hồi chuông cảnh báo 
về bi kịch của người cách mạng và sự ngu muội của 
quảng đại quần chúng nhân dân trong xã hội đương 
thời, từ đó mang lại niềm hi vọng cải biến thế giới 
tinh thần mà họ đang có. Nghĩa địa trở thành đầu 
mối của sự miêu tả, là nơi đan xen và giao nhau giữa 
sự sống và cái chết, là nơi hội tụ hai bi kịch của hai 
kiếp người, hai số phận, trở thành không gian độc 
đáo có ý nghĩa phê phán, giá trị nghệ thuật và nhân 
văn sâu sắc. 
57KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
3. KẾT LUẬN
Một trong những nét đặc sắc trong phong cách sáng 
tác của Lỗ Tấn là đã tạo ra một không gian nghệ 
thuật phản ánh chính xác hiện thực đương thời. Đây 
là một tập hợp của nhiều không gian riêng biệt. Bên 
cạnh không gian tự nhiên, sáng tác của Lỗ Tấn còn 
có không gian xã hội, kèm với nó là những đặc tả về 
nhân vật trong xã hội. Trong đa số các trường hợp, 
không gian trong sáng tác của Lỗ Tấn thường nặng 
nề, dài dằng dặc vì nó mang theo một nỗi mất mát 
không gì bù đắp nổi. Có khi không gian mang một 
màu sắc thấm đẫm tư tưởng tông pháp phong kiến 
và những quan niệm ngu muội của người dân bị đè 
nén, bị áp bức và trở thành bi kịch đối với kiếp người. 
Ở đó, các nhân vật dường như đang “sống mòn”: 
Hoặc bị giam hãm, bó chặt, luẩn quẩn trong vòng 
những âu lo hàng ngày, hoặc bị hành hạ, bị giày vò, 
bị ám ảnh giữa quá khứ và hiện tại, hoặc bị điên loạn, 
bị giết chết trong một xã hội thối nát, bất công với sự 
biến dạng về nhân tính, hoặc bị mất phương hướng 
trước đêm đen trải dài tưởng như vô tận, hoặc lạnh 
lẽo cô đơn trước biển người với tâm hồn băng giá...
Có thể thấy, không gian trong sáng tác Lỗ Tấn thường 
gây cảm giác lâu hơn, dài hơn so với thời gian khách 
quan vì nó luôn gắn liền với tâm trạng đau buồn và 
bi kịch của nhân vật, cũng như luôn gắn liền với bối 
cảnh tăm tối của xã hội. Tuy nhiên, không gian này 
có lúc cũng không hoàn toàn là u tối, giống như hình 
ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du trong tác phẩm “Thuốc”, 
đây là niềm tin, hi vọng thấp thoáng về tương lai cách 
mạng ẩn hiện trong những ngày đen tối. Vòng hoa đó 
chứng tỏ, dù Hạ Du bị xem là “kẻ phản động”, bị hành 
hình, gánh chịu sự ghẻ lạnh của quần chúng, nhưng 
vẫn còn có ai đó đang sống hiểu được nghĩa khí của 
anh. Cũng qua chi tiết này, dường như tác giả muốn 
chỉ ra, dù là hi vọng nhỏ, nhưng căn bệnh u mê trầm 
kha của quần chúng kia vẫn còn có thể chữa được. Có 
thể thấy, yếu tố lạc quan chủ nghĩa trong sáng tác này 
như thổi một luồng sinh khí mới vào nền văn học, là 
một đặc điểm có tính lịch sử độc đáo của xu hướng 
văn học hiện thực phê phán Trung Quốc thời hiện đại. 
Những tia sáng lạc quan ấy, nhìn chung, còn rất mong 
manh, chưa có cơ sở chắc chắn, tuy chưa thể xua tan 
không khí bi quan, ảm đạm bao trùm trong toàn bộ 
sáng tác của nhà văn trong thời kỳ này, nhưng cũng 
đủ để nói lên tiếng nói mạnh mẽ “cất lên từ những 
kiếp lầm than” của trào lưu văn học hiện thực phê 
phán mới nổi lên, đóng góp không nhỏ vào thành tựu 
rực rỡ của văn học hiện đại trong dòng lịch sử văn học 
của dân tộc Trung Hoa./.
Chú thích:
1. Các trích dẫn từ tác phẩm của Lỗ Tấn là lời dịch từ 
nguyên tác của tác giả bài viết.
Tài liệu tham khảo:
1.陈平原(2003),中国小说叙事模式的转变,北
京大学出版社,北京。
2.林非(2000),鲁迅和中国文化,学苑出版
社,北京。
3.钱理群(1999),走进当代的鲁迅,北京大学
出版社,北京。
4.吴中杰(2006),鲁迅的艺术世界,复旦大学
出版社,上海。
5.王付仁(2006),鲁迅研究的历史与现状,福
建教育出版社,福州。
6.杨义(1998),中国现代文学流派,人民出版
社,北京,第71页。
7.张文诺(2011),“鲁迅小说中的乡村空间想
象”,学术探索,第8期。
8.张志忠(2013),“从鲁迅到莫言:表述乡村”,
中国作家,第4期。
THE ORIGINALITY OF ART SPACE 
IN LU XUN’S WORKS
DO TIEN QUAN
Abstract: In the writing career of Lu Xun, the 
sense of space is always associated with the 
sense of human, life and society, associated 
with dreams, ideals and realism that the writer 
has been following. The paper studies the art 
space in Lu Xun’s works basing on two main 
categories of space that are the natural space 
and social space, clarifying the characteristics 
of social reality and the concept of the writer’s 
contemporary life, thereby contributing to 
stand out the attraction of unique art with Lu 
Xun’s writing style.
Keywords: art space, Lu Xun, works.

File đính kèm:

  • pdfsu_doc_dao_cua_khong_gian_nghe_thuat_trong_cac_sang_tac_cua.pdf