Hình tượng con người miền núi trong tiểu thuyết của Triều Ân
TÓM TẮT
Qua việc khảo sát 3 tiểu thuyết của Triều Ân là: Nắng vàng bản Dao (1992), Nơi ấy biên thuỳ
(1994), Dặm ngàn rong ruổi (2000), người viết đã chỉ ra những hình tượng nhân vật tiêu biểu như:
những con người miền núi vượt qua bức tường phong kiến lạc hậu; những con người bị tha hoá
đạo đức trong vòng xoáy của cơ chế thị trường và những con người hướng thiện giầu lòng nhân ái.
Qua những hình tượng nhân vật sinh động, độc đáo và mang hơi thở cuộc sống của người dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc, người đọc có thể thấy được cách khám phá con người, nhìn nhận cuộc
đời cũng như tâm hồn nhà văn.
thịt vì được ăn uống tốt.... Nó phải là người nhà thì mới tận tâm với việc buôn bán, mới không ăn cắp bớt tiền hàng”. Chính vì thế, Ngọc dã tâm tác động Lìn bỏ chồng lấy hắn. Một mũi tên trúng hai đích, vừa được vợ mà cũng có người giúp việc đắc lực không mất một đồng nào, lời lãi tăng cao. Điều đó cho thấy, Hồng Ngọc không chỉ thâm hiểm mà còn rất khôn ngoan, thủ đoạn, mang bản chất con buôn. Suy nghĩ “có tiền là có tất cả” đã biến Ngọc cũng như những người hám lợi khác mù quáng một cách vô lương tâm. Nhà văn Vi Hồng miêu tả những nhân vật phản diện, xấu xa luôn gắn với tư duy dân gian. Từ cách đặt tên nhân vật như: Ngô Khang Sa, Mã Thả An, Lăng Thị Thu Lả...đến cách đặt tên địa danh, bản mường: Nặm Đút, Nước Hang Rơi, Nặm Tốc Rù...đều đậm chất dân gian. Trái lại, Triều Ân dường như lại thoát li khỏi tư duy dân gian, cách kể và tả có phần hiện đại hơn. Điều đó thể hiện ngay từ tên tác phẩm như: Dặm ngàn rong ruổi, Nơi ấy biên thùy, Nắng vàng bản Dao; tên xã: Bắc Thôn, Quang Minh, Hòa An, Trùng Khánh...; cho tới tên người khá hiện đại: Hồng Ngọc, Dương Kim... Vì vậy, tác phẩm của ông đậm chất hiện thực hơn – một hiện thực sống động của cuộc sống con người miền núi những năm 90 của thế kỉ XX. Nhìn chung, thông qua nhân vật Tháo, Lìn, Hồng Ngọc... ta thấy được sự xuống cấp về lối sống, đạo đức của một bộ phận người dân ở nơi núi rừng hẻo lánh. Sở dĩ, họ trở thành những con người như vậy là do bị tác động bởi cơ chế thị trường, bởi thế lực đồng tiền. Những việc làm vô đạo đức của họ cuối cùng cũng phải trả giá. Đồng thời, qua các nhân vật này nhà văn cũng muốn cảnh tỉnh những người có lối sống, việc làm không đúng đắn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Cao Thị Hảo và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 39 - 45 44 trong xã hội hiện đại: Giá trị vật chất chỉ tồn tại vững bền khi đó là những thành quả do mồ hôi công sức mình làm ra. Những con người hướng thiện, giàu lòng nhân ái Tình yêu thương giữa người với người là một tình cảm thiêng liêng cao đẹp. Với con người miền núi, tình cảm ấy được thể hiện rất bình dị, mộc mạc trong cuộc sống hàng ngày của họ. Nhân vật Nông Bạch Kim trong tiểu thuyết Nắng vàng bản Dao là hiệu trưởng trường phổ thông cơ sở xã Quang Minh - “trung tâm khoa học” duy nhất của vùng quê miền núi xa xôi này. Là một hiệu trưởng tâm huyết, trách nhiệm anh mong muốn ánh sáng văn hóa soi rọi đến từng nếp sống sinh hoạt, từng nhận thức của người dân. Anh thực hiện chủ trương chính sách của Đảng ủy xã: “Nhà nhà đều xây dựng ba chuồng: chuồng trâu bò, chuồng lợn, chuồng tiêu”, và chỉ đạo cho các cán bộ giáo viên thực hiện. Cùng là dân tộc Tày, anh rất hiểu và thông cảm đối với hoàn cảnh của Lan, anh đối xử, quan tâm tới cô như một người em gái. Khi đồng nghiệp gặp nhiều bất hạnh: chồng chết, con chết.. anh cũng băn khoăn, suy nghĩ và thương cảm. Rõ ràng, Bạch Kim không chỉ là một thầy giáo mẫu mực mà còn là một người có tấm lòng nhân ái bao dung, coi nỗi đau của người khác như nỗi đau của chính mình. Thuần trong tiểu thuyết Dặm ngàn rong ruổi lại là một thầy thuốc hết lòng cứu chữa bệnh cho mọi người. Ở nhân vật này, bất cứ ai tiếp xúc đều cảm nhận ông là con người có “tinh thần tận tụy vì bệnh nhân”, nhiệt tình, không ngại gian khó. Ông đi khắp nơi tìm các vị thuốc chữa bệnh, đỉnh núi cao vời vợi tưởng chừng như chưa bao giờ có dấu chân người ông cũng leo tới để “hái ít lá hồng sí sẻn làm thuốc bổ”. Đối với người thầy thuốc, quan trọng hơn cả là tấm lòng và lương tâm, trách nhiệm. Chính vì vậy, ông Thuần luôn luôn tâm huyết với nghề nghiệp, đối với ai, hoàn cảnh như thế nào ông cũng tận tình chữa bệnh tới khi khỏi. Những bệnh nhân đó là: bà Phúc nhân hậu, cô Lìn có tiếng khinh người, “cướp chồng” của em gái, chị Bướm, hay cả những người đau ốm qua đường mà ông không quen. Không ngại đường xa, Thuần tới chữa bệnh cho Lưu – cô gái bản Bua xinh đẹp nhưng bị bệnh hắc lào toàn thân. Vì bệnh tật nên người yêu đã bỏ cô đi lấy vợ, đến bây giờ ngoài ba mươi mà cô vẫn chưa có chồng. Lương y Thuần tìm mọi cách chữa bệnh cho cô: đắp mủ “giang sa”, thậm chí “cưỡi ngựa về thung lũng gặp y sĩ xã” xin nhau thai làm thuốc. Cuối cùng, hạnh phúc mỉm cười với hai người, Lưu đã khỏi bệnh và lương y được kết duyên với chính bệnh nhân của mình. Cùng với lương y Thuần, bác sĩ Phương cũng là một tấm gương say mê nghề nghiệp, nghiên cứu khoa học để tìm cách chữa bệnh cho mọi người. Nếu như Thuần là thầy thuốc Đông y “rong ruổi” chữa bệnh khắp các vùng núi cao, thì Phương miệt mài với công trình khoa học, chữa bệnh cho mọi người bằng thuốc Tây y. Anh lên tận ngọn suối trên bản Luộc lấy mẫu nước để đem về phân tích, tìm ra căn nguyên bệnh bướu cổ cho người dân nơi đây. Đá dưới suối trơn, anh trượt chân ngã gãy tay nhưng chai nước để phân tích thì vẫn còn nguyên “Thấy chai nước múc từ ngọn suối còn nguyên vẹn, Phương nở nụ cười. Nhưng tiếp theo anh lại nhăn nhó vì cơn đau”. Có thể nói, Thuần và Phương là những tấm gương mẫu mực “lương y như từ mẫu”, có tình yêu thương con người, lòng nhân đạo sâu sắc, sẵn sàng hi sinh vì nghề nghiệp, vì bệnh nhân. Khác với những nhân vật trí thức như thầy giáo Kim, bác sĩ Phương, Hạng Thị Phón lại là cô gái Tày thuộc tầng lớp bình dân, nhưng là nhân vật lí tưởng mang những tư tưởng nhân văn, triết lí “ở hiền gặp lành”. Cô là em gái cùng mẹ khác cha với Lìn, nhưng cô khác hẳn người chị gái của mình, từ hình dáng:“người tầm thước, đậm đà như cha, nét mày như hai lá trúc xuôi về cuối mắt như mẹ; trông người phúc hậu”. Phón được nhiều người quí mến, bạn bè khâm phục. Phón yêu Lương, một tình yêu chân thành giản dị nhưng lúc nào cô cũng nghĩ tới mọi người trong gia đình. Khi Lương ngỏ lời xây dựng gia đình, Phón chân thành tâm sự những nỗi lòng băn khoăn thầm kín của mình: “Nếu lấy nhau, anh phải thông cảm cho hoàn cảnh của em, chị gái em góa chồng, đàn em còn nhỏ, anh sẽ là trụ cột, phải làm “rể nạp tế” (gửi rể có thời hạn) khi các em khôn lớn thì hai chúng mình mới được đi ở riêng hoặc đi ở nơi khác”. Cô luôn nghĩ cho người khác một cách thật lòng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Cao Thị Hảo và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 39 - 45 45 mà không hề toan tính cho mình. Phón giống như cô Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” luôn bị người chị em cùng dòng máu ghen ghét, hãm hại. Những lá thư gửi về cho chồng đều bị Lìn bóc ra đọc và đốt hết, nói những lời bịa đặt khiến tình cảm vợ chồng Phón rạn nứt. Rồi bị chị gái tranh chồng, bỏ rơi khi gặp nạn, đến khi gặp lại cô cũng không hề than trách. Nhưng vì ăn ở hiền lành nên cô đã gặp may mắn, được sum họp cùng gia đình thân yêu của mình. Có thể nói, những nhân vật hướng thiện, có tấm lòng nhân ái xuất hiện khá nhiều trong tiểu thuyết của Triều Ân. Ngoài những nhân vật điển hình như: Bạch Kim, Thuần, Phương, Phón còn có nhiều nhân vật tốt bụng khác như: cô giáo Nải nhiệt tình, tận tụy giúp đỡ đồng nghiệp; bà Ngọc Thị Lơ đức hạnh, mẹ con bà Phúc nhân hậu... Tất cả những con người này đã góp phần tạo nên một thế giới nhân vật lành mạnh, hướng thiện, phản ánh được những phẩm chất tốt đẹp của con người, cũng như giá trị nhân văn cao cả trong đời của sống cộng đồng các dân tộc thiểu số luôn được bảo tồn, duy dưỡng và phát triển. Phải chăng đây cũng là thông điệp mà nhà văn Triều Ân muốn gửi gắm đến bạn đọc ? Văn xuôi các dân tộc thiểu số ngày càng phát triển và được khẳng định trong đời sống văn học Việt Nam. Các tiểu thuyết của Triều Ân ra đời vào thời kì văn xuôi dân tộc thiểu số nở rộ mạnh mẽ, những năm 80 – 90 của thế kỉ XX. Đây là thời kì chuyển từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Cơ cấu kinh tế miền núi có nhiều biến động, quan hệ đạo đức giữa người với người phần nào bị xuống cấp. Thông qua hệ thống nhân vật đa dạng và phong phú với nhiều tầng lớp người thuộc nhiều ngành nghề khác nhau nhà văn muốn ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của con người miền núi trong thời đại mới. Cái mới bao giờ cũng chiến thắng cái cũ, cái tốt bao giờ cũng được tôn vinh và cái ác luôn bị lên án, triệt tiêu. Đồng thời, nhà văn cũng bác bỏ những hủ tục, lên án những tàn dư của xã hội phong kiến còn sót lại và phản ánh một hiện trạng khá phổ biến đó là sự lầm lạc về lối sống, suy nghĩ, tính cách... của một bộ phận người dân miền núi trong thời buổi cơ chế thị trường. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1], [2] Bích Thu, bài: “Bản sắc dân tộc trong tiểu thuyết của Triều Ân”, in trong Triều Ân tác giả tác phẩm, Hồng Thanh (tuyển chọn), Nxb Văn hóa dân tộc, 2009, tr.55, 57. [3]. Nguyễn Văn Long, bài: “Triều Ân – cây bút văn xuôi đặc sắc dân tộc Tày”, in trong Triều Ân tác giả tác phẩm, Hồng Thanh (tuyển chọn), Nxb Văn hóa dân tộc, 2009, tr.34. [4]. Triều Ân, Tuyển tập thơ văn Triều Ân, Nxb Văn học, Hà Nội (tất cả dẫn chứng dẫn trong bài đều tham khảo từ tài liệu này),(2006). [5]. Lâm Tiến, Văn học và miền núi, Nxb Văn hóa dân tộc, 2002. SUMMARY THE SYMBOL OF MOUNTAINOUS PEOPLE IN TRIEU AN’S NOVELS Cao Thi Hao*, Duong Trung Tin College of Education - TNU Through examining three novels of Trieu An including “Nang vang ban Dao” (1992), “Nơi ay bien thuy” (1994), “Dam ngan rong ruoi” (2000) , the writer has pointed out the iconic characters as typical: mountain people through walls feudal backwardness; the alienation people are ethical whirlpool of market mechanisms and the rich man good direction humanity. Through vivid imagery character, unique and breath life of ethnic minorities in the North, the reader can see how people discover, view life as well as spiritual writers . Key words: Novel of Trieu An, Ethnic minority literature. * Email: caohaokv@yahoo.com Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
File đính kèm:
- hinh_tuong_con_nguoi_mien_nui_trong_tieu_thuyet_cua_trieu_an.pdf