Lầu Tàng Thơ trong các nguồn tư liệu Hán Nôm

1. Lời mở

Lầu Tàng Thơ (Tàng Thư Lâu 藏書樓) là một trong những di tích kiến trúc

nghệ thuật quan trọng trong quần thể di tích cố đô Huế, được Bộ Văn hóa & Thông

tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao & Du lịch) xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật

quốc gia theo quyết định số 99/2004/QĐ-BVHTT ngày 15 tháng 12 năm 2004.

Cùng với sự phục hưng và phát triển mạnh mẽ di tích Huế, lầu Tàng Thơ đã được

Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế chú trọng đầu tư tôn tạo trong nhiều năm

qua, với mục đích phục hồi Thư viện Hoàng cung, nơi được xem là một thư viện

lớn, một trung tâm lưu trữ và phục chế tư liệu nổi bật, một địa chỉ tin cậy của không

chỉ ở Huế mà còn đối với nhân dân cả nước.

Nhân lầu Tàng Thơ sắp được khánh thành và đưa vào hoạt động, chúng tôi

xin có một số khảo sát và giới thiệu sơ lược lầu Tàng Thơ trong các nguồn tư liệu

Hán Nôm, nhằm góp phần cung cấp cái nhìn tương đối xuyên suốt về lầu Tàng Thơ

trong hơn 100 năm tồn tại của mình

pdf9 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 192 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Lầu Tàng Thơ trong các nguồn tư liệu Hán Nôm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
 
xây xong, [Hoàng thượng] ra lệnh cho bọn chức trách kiểm kê, soạn đặt sách vở 
sạch đẹp, khiêng đến chứa vào hai dãy tầng lầu, để xiển dương rực rỡ cơ nghiệp 
muôn đời, lưu giữ “tấm gương soi” tốt lành, sáng ngời muôn thuở. Lầu được dựng 
xây để cất giữ thư tịch, nhân đó vâng mệnh mà gọi tên ấy (Tàng Thư Lâu).
Ngày tốt tháng 10 năm Bính Tuất, niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1826).
4. Đôi lời luận bàn (thay lời kết)
Từ khi được xây dựng, hoàn thành và đi vào sử dụng (1825 - 1826) cho đến 
lúc chấm dứt vai trò trung tâm lưu trữ của mình cùng sự chấm dứt của vương triều 
Nguyễn (1945), lầu Tàng Thơ luôn là một cơ sở quan trọng trong việc bảo lưu, giữ 
gìn và phát huy giá trị di sản tư liệu của đất nước. 
Sử sách, bia ký cho biết lầu Tàng Thơ được khởi công xây dựng vào tháng 
5 năm Ất Dậu (1825) và khánh thành đưa vào sử dụng từ tháng 10 năm Bính Tuất 
(1826). Việc sử dụng hơn 1.000 nhân công thuộc Bộ Binh làm việc suốt hơn 1 năm 
trời để hoàn thành xây cất lầu Tàng Thơ với quy mô khá đồ sộ, được bao bọc bởi 
hồ Học Hải, tách biệt với đất liền xung quanh (được nối kết bằng chiếc cầu) chứng 
145Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
tỏ vua Minh Mệnh của triều Nguyễn đặc biệt chú trọng đến việc bảo vệ, giữ gìn 
văn bản thư tịch các đời. 
Lầu Tàng Thơ ra đời đã mang trong mình chức năng lưu trữ Châu bản triều 
Nguyễn, sổ sách binh ngạch, sổ sách địa bạ cả nước và tư liệu của 6 bộ (Lại, Hộ, 
Lễ, Binh, Hình, Công). Rõ ràng, đối với chính triều nhà Nguyễn nói riêng, đối với 
di sản văn hóa lịch sử Việt Nam nói chung, lầu Tàng Thơ có vị thế khá trọng yếu. 
Vì vậy, không hề ngẫu nhiên khi các đời vua triều Nguyễn luôn quan tâm sâu sát 
đến quá trình trùng kiến, tu bổ lầu Tàng Thơ. Hệ thống Châu bản triều Nguyễn 
hiện tồn cùng các tư liệu trong Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, văn bia 
Tàng Thư Lâu ký đã thể hiện rõ nét sự quan tâm ấy, đồng thời góp phần khẳng 
định vai trò, vị trí to lớn của lầu Tàng Thơ trong lịch sử văn hóa của địa phương 
và đất nước.
Hơn thế nữa, lầu Tàng Thơ không chỉ có giá trị cao, có vị thế quan trọng đối 
với người Việt, mà còn thu hút sự quan tâm tìm hiểu của những chuyên gia lịch 
sử, kinh tế ngoại quốc và những người nước ngoài yêu quý văn hóa ngôn ngữ Việt 
Nam. Chính Paul Boudet (chuyên viên lưu trữ & chữ cổ) khi khảo sát Những nơi 
lưu trữ văn khố của các Hoàng đế An Nam và lịch sử Việt Nam (Những người bạn 
Cố đô Huế - BAVH, 1942) đã khẳng định vai trò lưu trữ tư liệu độc đáo, giá trị của 
lầu Tàng Thơ: “Cuối cùng, để bổ sung vào bảng tóm lược về các tổ chức, về tình 
trạng của những nơi lưu trữ văn khố của hoàng triều, chúng tôi xin nói thêm văn 
khố gọi là Tàng Thơ lâu, nơi có tàng trữ những sổ thuế cũ. Những tài liệu ấy có 
thể cung cấp cho các sử gia và các nhà kinh tế học nhiều thông tin rất quý báu lại 
đang bị bỏ liều sau những bức tường cũ kỹ đầy bụi bám và không xa kho thuốc 
súng nằm cạnh đó là bao nhiêu”.(18)
Với dấu ấn đậm nét đối với triều Nguyễn nói riêng, với lịch sử văn hóa Việt 
Nam nói chung trong hơn trăm năm tồn tại, lầu Tàng Thơ đã được Trung tâm Bảo 
tồn Di tích Cố đô Huế tiến hành tu bổ, phục dựng. Đến nay, công tác trùng tu gần 
như đã hoàn thành sau hơn 3 năm tiến hành (khởi công từ ngày 17 tháng 6 năm 
2014) và đang dần hoàn thiện tất cả các hạng mục, để sớm đưa vào vận hành. Hy 
vọng rằng, sau khi được đưa vào sử dụng, Tàng Thơ/ Thư Lâu sẽ trở thành một 
trung tâm lưu trữ đặc sắc của Huế, một “Thư viện Hoàng cung” đầy uy tín và giá 
trị, xứng đáng với vị thế vốn có của ngôi lầu này trong lịch sử.
 V V Q
CHÚ THÍCH
(1) Phan Thanh Hải, Lê Thị Toán, 2007, “Tàng Thơ lâu và dự án xây dựng thư viện Cố đô”, Di 
sản văn hóa Huế - nghiên cứu và bảo tồn, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản, 
Huế, tr.299.
146 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
(2) Nguyên văn: 建藏書樓(在京城內盈豐坊。樓起兩層,上層七閒二廈,下層十一閒,周圍各砌
欄檻。樓四旁砌方池,名學海池。池之西有橋。六部上年冊籍皆于樓上藏之)命署統制段德論董
班直雄拒各保各差弁兵一千人營. Theo: The Institute of Cultural and Linguistic Studies Keio 
University, 1972, Đại Nam thực lục VI: Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhị kỷ, Mita, Minato-
ku, Tokyo, Japan, 1838.P. 
(3) Nguyên văn: 藏書樓在學海池中。明命六年建以為藏官文書之所。下層樓十一間,上層樓七間
二廈,均四圍欄杆。上覆土磚,外塗石灰。池之四面繚以磚垣,右設門店三間,砌甃為橋。十
九年,奏準藏書樓下層分設三廒,下列鉛片以貯𥓒硝. Theo: Khâm định Đại Nam hội điển sự 
lệ, quyển 210: phần Bộ Công 工部, mục Phủ khố 府庫, tờ 9b (bản chữ Hán). Sở dĩ chúng 
tôi cung cấp bản chữ Hán và bản dịch lại ở trên bởi lẽ bản dịch của Viện Sử học (Nxb 
ThuậnHóa, 1993) ở đoạn này chưa chính xác, khiến cho người đọc dễ nhầm lẫn bỏ qua. 
(4) Nguyên văn: 藏書樓在京城內净心湖之東豐盈坊。明命六年建樓,制砌磚。上層七閒二廈,下層
十二閒,四圍設欄杆,周以方池名學海池。池西架橋以通出入。凡六部諸衙上年冊籍皆藏焉。成
泰十六年再構更店一屋交兵丁居住更守. Theo: Đại Nam nhất thống chí, quyển 1 (Hán văn, Duy 
Tân năm thứ 3 [1909] khắc bản), Thư viện Quốc gia Việt Nam lưu trữ, ký hiệu: R.779, tờ 36.
 Bản chữ Hán Đại Nam nhất thống chí đời Duy Tân này có sự khác biệt về tên phường 
(Phong Doanh 豐盈) và số gian lầu dưới (hạ tằng thập nhị gian 下層十二閒: tầng dưới 12 
gian). Đối chiếu với những ghi chép trong Đại Nam thực lục, chính biên đệ nhị kỷ và Khâm 
định Đại Nam hội điển sự lệ (đều đã trích dẫn ở trên), chúng tôi cho rằng phần ghi chép ở 
Đại Nam nhất thống chí có sự nhầm lẫn nhỏ. Thực tế, số gian lầu ở tầng dưới (theo 2 tư liệu 
Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ) đều là 11 gian. 
Về tên phường, chúng tôi cho rằng tên phường theo ghi chép ở Đại Nam thực lục chính biên 
đệ nhị kỷ (hoàn thành vào năm 1861) là phường Doanh Phong 盈豐坊 hợp lý hơn.
(5) Tham khảo bài viết: “Tàng Thư lâu, một công trình kiến trúc độc đáo, trung tâm lưu trữ 
đặc biệt của triều đình nhà Nguyễn trong gần 120 năm, từ 1826 - 1945” của Th.S Hoàng 
Nguyệt (Phòng Công bố và giới thiệu tài liệu -Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I) đăng tải trên 
trang Web của Cục Văn thư Lưu trữ Nhà nước, link: 
Tin%20chi%20ti%E1%BA%BFt.aspx?itemid=530&listId=c2d480fb-e285-4961-b9cd-
b018b58b22d0&ws=content.
(6) Nguồn văn bản trích từ bài viết của Th.S Hoàng Nguyệt trên trang web của Cục Văn thư Lưu 
trữ (đã dẫn ở trên). 
(7) Dấu châu điểm bằng mực son ở chính giữa chữ Tấu của văn bản này.
(8) Tư 咨: còn gọi là tư văn 咨文, một thể thức văn bản hành chính thời quân chủ, với chức năng 
là các loại văn thư qua lại trao đổi giữa các quan lại.
(9) Khoa đạo 科道: chức danh gọi chung những viên quan Tam pháp (Bộ Hình, Viện Đô Sát, Đại 
Lý Tự) thời Nguyễn, chuyên lo việc kiểm soát, hướng dẫn các cơ quan làm đúng quy chế 
pháp luật (theo Đỗ Văn Ninh (2006), Từ điển chức quan Việt Nam (in lần thứ 2 có bổ sung 
và sửa chữa), Nxb Thanh niên, Hà Nội, tr.419.
(10) Phiến 片: mảnh giấy tâu kèm, đây là một thể thức văn bản hành chính dùng để đính kèm sớ 
tâu lên Hoàng đế (còn gọi là phụ phiến 附片: tờ phiến tâu kèm theo).
(11) Sức 飭: mệnh lệnh, lệnh của quan truyền xuống cho dân biết gọi là sức. Sai đầy tớ đưa trình 
thư từ nói là sức trình 飭呈 hay sức tống 飭送.
147Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
(12) Chủ điển 主典: tức viên quan coi giữ lầu Tàng Thư (điển 典 ở đây là người giữ, hoặc người 
có chủ trương một công việc gì đó, như điển tự 典祀 quan coi việc cúng tế).
(13) Tham khảo: Võ Vinh Quang, “‘Tàng Thư Lâu ký’ công trình bi ký độc đáo về lầu Tàng Thư”, 
Tạp chí Sông Hương số 308 (10/2014), tr.92-95.
(14) Điển thường 典常: tức thường đạo 常道, thường pháp 常法: các đạo lý, điển lệ, pháp độ 
thường hằng, được mọi người dùng làm kim chỉ nam cho cuộc sống. Tiết 4, chương VIII, mục 
“Hệ Từ Hạ” trong Kinh Dịch có câu “Sơ suất kỳ từ nhi quỹ kỳ phương. Ký hữu điển thường” 
初率其辭而揆其方既有典常 nghĩa là: ban đầu noi theo các lời nói [đinh điển, chân lý] ấy mà 
tìm hiểu sâu sắc ý nghĩa của nó [nắm được mọi lý bao quát của nó] ấy gọi là điển thường. 
Như vậy, điển thường là chân lý kinh điển thường hằng trong vũ trụ này.
(15) Vạn cơ 萬幾: cách viết rút gọn của “vạn sự chi cơ” 萬事之幾 (mầm mống mọi công việc chính 
sự nổi lên phồn tạp, đầy ắp. Cơ 幾 ở đây là các việc bắt đầu khởi phát lên mạnh mẽ). Vạn 
cơ 萬幾 thường chỉ việc chính sự phồn tạp, nổi lên đầy rẫy mà vị hoàng đế hoặc nguyên 
thủ quốc gia phải giải quyết. Chữ này xuất xứ từ Kinh Thư 書經, thiên Cao Dao Mô 皋陶謨: 
“Căng căng nghiệp nghiệp, nhất nhật nhị nhật vạn cơ” 兢兢業業,一日二日萬幾 (Nơm nớp lo 
sợ, một ngày hai ngày [thận trọng] xử lý công việc đầy ắp), Vạn cơ 萬幾 cũng có khi viết là 
Vạn cơ 萬機.
(16) Thảng hạng 帑項: tiền tài trong quốc khố, tức còn gọi là công khoản 公款 (kinh phí phục vụ 
việc công).
(17) Hồng du 鴻猷: mưu lược vĩ đại, ý chỉ sự nghiệp to lớn vĩ đại, cơ nghiệp muôn đời (tương tự 
như từ Hồng đồ 鴻圖: cơ đồ to lớn vĩ đại).
(18) Paul Boudet, 2016, “Những nơi lưu trữ văn khố của các Hoàng đế An Nam và lịch sử Việt 
Nam”, Những người bạn Cố đô Huế - BAVH, tập XXIX, 1942 (bản dịch), Nxb Thuận Hóa, 
Huế, tr.319.
TÓM TẮT
Nhân lầu Tàng Thơ sắp đi vào hoạt động sau nhiều năm được Trung tâm Bảo tồn Di tích 
Cố đô Huế trùng tu tôn tạo (khởi công ngày 17/6/2014) với mong muốn xây dựng một “Thư viện 
Hoàng cung” lưu trữ và trưng bày tư liệu quý về văn hóa Huế (trong đó có văn hóa cung đình 
Huế), chúng tôi xin công bố bài viết về một số tư liệu Hán Nôm liên quan đến lầu Tàng Thơ trong 
sử sách, bia ký nhằm phác thảo cái nhìn tổng quan về sự hình thành, đặc trưng kiến trúc, chức 
năng lưu trữ tư liệu để góp phần khẳng định vai trò, chức năng và vị thế quan trọng của nó 
trong lịch sử.
ABSTRACT
TÀNG THƠ LÂU IN SINO-VIETNAMESE NÔM CHARACTER DOCUMENTS
On the occasion of the coming operation of Tàng Thơ Lâu (Archives Office) after many 
years being restored by Hue Monuments Conservation Center (beginning on June 17, 2014) 
with the desire to build a “royal library” in order to archive and display precious documents on 
Hue culture. The article presents some Sino-Vietnamese Nôm character documents related to 
Tàng Thơ Lâu in history and on epitaphs to bring out an overview on the foundation, architectural 
features and the function of document storage to help confirm its important role, function and 
position in history.

File đính kèm:

  • pdflau_tang_tho_trong_cac_nguon_tu_lieu_han_nom.pdf