Tín hiệu văn hóa trong ngôn ngữ ca dao và thơ hiện đại

Tín hiệu văn hóa là dấu hiệu ngôn ngữ cho ta nhận biết nó mang ý nghĩa v

hóa, biểu trưng văn hóa. Những tín hiệu văn hóa trong thơ thư

xuất từ văn hóa dân gian, từ cội nguồn văn hóa dân tộc

của dân tộc, đặc điểm địa lí và lịch sử xã hội Việt Nam. Tín hiệu và

hiện trong ngôn ngữ thơ bao gồm: văn hóa nông nghi

nghề nghiệp, phong tục tập quán, lời ăn tiếng nói, bản sắc vùng miền, không

gian văn hóa dân tộc. Những yếu tố văn hóa Việt trong

thẩm mĩ biểu thị đặc trưng văn hóa dân tộc.

pdf5 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 332 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Tín hiệu văn hóa trong ngôn ngữ ca dao và thơ hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
àu dân tộc biểu thị qua tín hiệu: 
tranh gà lợn, màu tươi trong. 
Các nhà thơ đã đem vào thơ nếp sống sinh hoạt, 
phong tục mặc mang đậm văn hóa Việt. Những dấu 
chỉ văn hóa thể hiện trong các từ ngữ thơ biểu thị cách 
ăn mặc, nếp sống của người dân quê. Những năm 30 
đến 50 của thể kỉ hai mươi, cách ăn mặc sinh hoạt của 
người dân thôn quê vẫn còn thể hiện nét “chân quê” 
với mặc yếm thắm, răng đen, ăn trầu: “Những cô hàng 
xén răng đen/Cười như mùa thu tỏa nắng” (Hoàng 
Cầm-Bên kia sông Đuống); “Trên đường cát mịn một 
đôi cô/Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa” (Nguyễn 
Bính-Xuân về). Màu sắc chủ đạo của người Việt biểu 
thị là màu đen, màu nâu (thâm, chàm): “Áo chàm đưa 
buổi phân li” (Tố Hữu-Việt Bắc), “Gái trai cũng một 
áo nâu nhuộm bùn” (Nguyễn Đình Thi- Bài thơ Hắc 
Hải), “Những em xột xoạt quần nâu” (Hoàng Cầm- 
Bên kia sông Đuống). Màu đen, nâu, vàng là màu tối, 
phù hợp với màu đất, là màu mát phù hợp với lối sống 
nông nghiệp và khí hậu nóng nực. Màu đen là màu nổi 
trội: răng đen, quần đen, tóc đen. Đoàn Văn Cừ đã ghi 
lại khung cảnh một lễ đưa dâu của đám cưới quê 
những năm đầu thế kỉ hai mươi với cách trang phục đi 
lại lộng lẫy, trang nghiêm, nền nã. Các cụ ông thì 
“Mặc áo đỏ, cầm hương đi trước đám /Dăm sáu cụ áo 
mền bông đỏ sẫm/Quần nâu hồng, chống gậy bước 
theo sau”. Nếu các ông che “ô đen” thì các cụ bà: 
“Đầu nón Nghệ, tay cầm khăn mặt đỏ” và “Túi đựng 
trầu chăm chăm giữ trong tay”. Trong khi các chàng 
trai: “Quần lụa chùng, nón dứa áo sa huê” thì các cô 
gái nào là: “váy lĩnh, dép quai cong”, nào là: “Áo đồng 
lầm, yếm đỏ, thắt lưng xanh”. Các cháu bé thì: “Đầu 
cạo nhẵn, áo vàng, quần nâu sẫm”. Đặc biệt nổi bật là 
cô dâu thật “choáng lộn” với “Vành khuyên vàng, áo 
mớ, nón quai thao” (Đoàn Văn Cừ-Đám cưới mùa 
xuân). Những từ ngữ biểu thị nhiều loại trang phục 
dân tộc đẹp mà nền nã. Áo thì đủ loại, từ áo trong đến 
áo ngoài: yếm đỏ, áo mớ,áo mền bông, áo đồng lầm, 
áo sa huê,áo vàng. Quần cũng đủ kiểu: quần nâu hồng, 
quần lụa chùng, váy lĩnh, quần nâu sẫm. Ngoài ra còn 
có các thứ đội, đeo: nón Nghệ, nói quai thao, thắt lưng 
xanh, vành khuyên vàng. Bên cạnh các màu tối thì có 
màu sáng chói như màu đỏ, màu hồng được cho là 
màu may mắn, thịnh vượng. 
2.3. Tín hiệu biểu trưng văn hóa dân gian và sắc 
thái văn hóa vùng đất 
Các chỉ dấu văn hóa dân gian đậm đặc nhất thể 
hiện trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa 
L.D.Luan/ No.07_March2018|p.55-59 
 58
Điềm. Tác giả đã đem vào thơ những biểu tượng lấy 
từ kho tàng văn hóa dân gian. Không gian lãnh thổ Tổ 
quốc, không gian thiêng liêng từ thời tổ tiên cư trú. 
Các tín hiệu biểu trưng các nhân vật huyền thoại trong 
truyền thuyết Việt về nguồn gốc giống nòi, đó là Lạc 
Long Quân và Âu Cơ: “Đất là nơi Chim về/Nước là 
nơi Rồng ở/Lạc Long Quân và Âu Cơ”. Thay vì trời và 
đất thì đất và nước là biểu tượng của hai vùng lãnh thổ 
tiêu biểu của cư dân Lạc Việt. Đó cũng là không gian 
tự nhiên từ rừng vàng đến biển bạc: “Đất là nơi con 
chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc/Nước là nơi 
con cá ngư ông móng nước biển khơi”. Đó là không 
gian của anh và em, cặp âm dương trai gái hòa hợp 
được hiện diện trong không gian sinh hoạt đời thường: 
“Đất là nơi anh đến trường/Nước là nơi em tắm/Đất 
nước là nơi ta hò hẹn/Đất nước là nơi em đánh rơi 
chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. 
Đất nước tạo dựng bởi những người bình dân qua 
suốt chiều dài lịch sử, tạo nên dáng vẻ hình hài bằng 
tình yêu chung thủy: “núi Vọng Phu, hòn Trống mái; 
sự cần cù hiếu học “núi Bút non Nghiên”, để lại dấu 
ấn của mình trong các địa danh: “Những người dân 
nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà 
Điểm”. Đặc điểm địa hình, các danh thắng thiên nhiên 
cũng được Nguyễn Khoa Điềm được chỉ dấu từ các 
truyền thuyết dân gian: “Gót ngựa của Thánh Gióng 
đi qua còn trăm ao đầm để lại/Chín mươi chín con voi 
góp mình dựng đất tổ Hùng Vương/Những con rồng 
nằm im góp dòng sông xanh thẳm/Con cóc con gà quê 
hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Tác 
giả nói về đặc điểm địa danh từ nguồn gốc tên gọi, lí 
do tên gọi mà còn nói đến ý thức cội nguồn của việc 
đặt tên: “Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi 
chuyến di dân”. Đấy chính là ý thức lưu giữ địa danh 
nơi chôn rau cắt rốn đặt cho nơi ở mới trong quá trình 
đi mở cõi của người Việt. Có thể nói rằng, đặc điểm 
lịch sử văn hóa dân tộc Việt đã được Nguyễn Khoa 
Điềm thể hiện một cách hình tượng trong các từ ngữ 
chỉ dấu văn hóa dân gian. 
Tín hiệu ngôn ngữ biểu thị các làn điệu dân ca sông 
nước: hò sông Mã, hò khoan Lệ Thủy, hò mái nhì, hò 
mái đẩy, hò kéo thuyền“Ôi những dòng sông bắt 
nước từ đâu/Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu 
hát/Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác”. 
Đấy chính là hình tượng người Việt Nam cần cù lao 
động, lạc quan, yêu đời ham sống. 
Trong thơ, sự chỉ dấu văn hóa giao tiếp thể hiện ở 
lời ăn tiếng nói dân gian, vừa có tính phổ quát vừa có 
sắc thái vùng miền. Sắc thái văn hóa vùng biểu hiện ở 
các chỉ dấu về đặc điểm tự nhiên, món ăn thức uống, 
sinh hoạt. Nhà thơ Tố Hữu rất chú trọng sử dụng lời 
ăn tiếng nói dân gian. Phương ngữ miền Trung, đặc 
biệt là chất giọng Huế đã tạo cho thơ Tố Hữu một âm 
điệu riêng, nó toát lên phần nào khí chất của con 
người nơi đây. Từ “cơ chi” trong “Bài ca quê hương” 
gần nghĩa với “giá mà” nhưng trìu mến, da diết: “Ôi, 
cơ chi anh được về với Huế/ Không đợi trưa nay 
phượng nở với cờ/ Cơ chi anh được về bên nội/ Hôn 
nỗi đau tan nát Phù Lai”. Chất giọng Quảng Bình với 
các từ phương ngữ đặc trưng Bắc miền Trung trong 
các từ “chừ, chi, rứa, răng, nờ...”: “Bây chừ sông nước 
về ta/ Gan chi, gan rứa, mẹ nờ? Cớ răng ông cũng 
ưng cho mẹ chèo?” (Mẹ Suốt) [9] 
Tố Hữu chú trọng đến ngôn ngữ biểu thị đặc điểm 
khí hậu, núi rừng và sản vật của vùng đất. Đặc điểm 
thổ nhưỡng, khí hậu, cư trú của vùng núi Việt Bắc thể 
hiện trong các từ ngữ: mưa nguồn, suối lũ, mây mù, 
trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, mơ nở trắng 
rừng, bản khói cùng sương “Mưa nguồn suối lũ những 
mây cùng mù/Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng 
nương/bản khói cùng sương/Ngày xuân mơ nở trắng 
rừng”. Sản vật miền núi đặc trưng là tre, nứa, phách, 
trám bùi, măng mai, ngô: “Trám bùi để rụng, măng 
mai để già/ Nhớ từng rừng nứa bờ tre/Thương nhau, 
chia củ sắn lùi/Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”. 
Nổi bật là cảnh sinh hoạt đầy tự tin, khỏe khoắn của 
người dân: “Đèo cao nắng ánh dao cài thắt lưng/ cô 
em gái hái măng một mình/ người mẹ nắng cháy 
lưng/Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”. Nguyễn Đình 
Thi tả khí trời và phố Hà Nội vào thu chỉ một câu thơ 
với từ ngữ chỉ dấu đặc trưng: hơi may, phố dài 
“Những phố dài xao xác hơi may” (Đất nước). 
3. Kết luận 
Những yếu tố văn hóa Việt trong thơ phần lớn là 
những tín hiệu thẩm mĩ biểu thị đặc trưng văn hóa dân 
tộc. Văn hóa dân tộc trong thơ thường đề cập đến văn 
hóa nông nghiệp, làng quê, phong tục tập quán thuần 
hậu. Đặc trưng văn hóa dân gian, văn hóa vùng miền 
qua các từ ngữ biểu thị sản vật, món ăn thức uống. 
Chất giọng, cách nói năng thể hiện qua phương ngữ 
thể hiện trong các từ ngữ giao tiếp. 
Ca dao là một loại hình thơ dân gian thể hiện khá 
rõ đặc trưng văn hóa Việt, đặc biệt là văn hóa nông 
nghiệp. Những nhà thơ mà các tác phẩm biểu thị 
những tín hiệu văn hóa Việt thường thường có lấy các 
từ ngữ thuần Việt, cách nói năng của quần chúng nhân 
dân. Những tác phẩm thơ thể hiện văn hóa dân tộc 
L.D.Luan/ No.07_March2018|p.55-59 
 59
thường có sức cuốn hút lớn đối với người đọc qua 
nhiều thế hệ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn ngữ thơ, Nxb 
ĐH&GDCN, H, 1987; 
2. Nguyễn Văn Chiến, Tiến tới xác lập vốn từ vựng 
văn hóa Việt, Nxb KHXH, H, 2004; 
3. Hữu Đạt, Văn hoá và ngôn ngữ giao tiếp của 
người Việt, Nxb VHTT, H, 2000; 
4. Nguyễn Văn Độ, Tìm hiểu mối quan hệ ngôn ngữ- 
văn hoá, Nxb ĐHQG Hà Nội, 2004; 
5. Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt 
Nam hiện đại, Nxb KHXH, H 1974; 
6. Đinh Hồng Hải, Nghiên cứu biểu tượng. Một số 
hướng tiếp cận lý thuyết, Nxb Thế giới, H, 2014; 
7. Nguyễn Lai, Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận 
văn học, Nxb GD, H, 1996; 
8. IU.M.Lotman, Kí hiệu học văn hóa. Người dịch: 
Lã Nguyên, Đỗ Hải Phong, Trần Đình Sử, Nxb Đại 
học Quốc gia Hà Nội, 2016; 
9. Lê Đức Luận, Vai trò của phương ngữ địa lí và 
phương ngữ xã hội với sự phát triển tiếng Việt, Kỉ yếu 
Hội thảo ngôn ngữ, Viện Ngôn ngữ học, Hội Ngôn 
ngữ thành phố Hồ Chí Minh, 2002; 
10. Lê Đức Luận, Âm vang địa danh Hà Nội trong ca 
dao dân ca, Ngôn ngữ và Đời sống, số 1+2 
(123+124), H, 2006; 
11. Lê Đức Luận, Cấu trúc ca dao trữ tình người 
Việt, Nxb Đại học Huế, 2009; 
12. Lê Đức Luận, Điểm nhìn nghiên cứu văn học, 
Tái bản, Nxb Văn học, H, 2011; 
13. Lê Đức Luận, Đặc điểm ngôn ngữ và văn hóa của 
từ ngữ biểu thị phạm trù “ăn” trong ca dao người 
Việt, Tạp chí Khoa học và giáo dục, Đại học Sư phạm, 
ĐHĐN, Số 23 (02), 2017; 
14. Mai Thị Kiều Phượng, Tín hiệu thẩm mĩ trong 
ngôn ngữ học, Nxb Khoa học Xã hội, H, 2008; 
15. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb 
GD, H, 1998. 
Cultural language signal in folk poetry and modern poetry 
Le Duc Luan 
Article info Abstract 
Recieved: 
29/01/2018 
Accepted: 
10/3/2018 
Cultural signal is a sign language for us to realize its cultural significance and, 
symbolic culture. These cultural signals in poetry are usually go from folklore, from 
the national cultural roots, from normal life of the nation, geographical features and 
social history of Vietnam. Signal cultural expression in the language of poetry 
include: agricultural culture and village, professional culture, customs, voice 
replies, regional identity, national cultural space. The Vietnamese cultural element 
in poetry is the aesthetic signal characterization ethnic culture. 
Keywords: 
Signal; culture; language; 
Agriculture; employment; 
customs; words; identities; 
regional; national cultural 
space. 

File đính kèm:

  • pdftin_hieu_van_hoa_trong_ngon_ngu_ca_dao_va_tho_hien_dai.pdf