Hệ thống biểu tượng đặc sắc trong thơ tượng Trưng Bích Khê

Tóm tắt: Bích Khê (1916-1946) là một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào

Thơ mới, là đại biểu của thơ tượng trưng Việt Nam, là nhà thơ thành công trong việc xây

dựng hệ thống biểu tượng. Trên cơ sở khảo sát hai tập thơ “Tinh huyết” và “Tinh hoa”

(gồm 75 bài), tác giả nhận thấy biểu tượng xuất hiện dày đặc và có tính hệ thống. Bài viết

đề cập đến các hệ thống biểu tượng: hệ thống biểu tượng màu sắc; hệ thống biểu tượng

“sáng loáng tợ trân châu”; hệ thống biểu tượng nhục thể; hệ thống biểu tượng kinh dị

pdf9 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 430 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Hệ thống biểu tượng đặc sắc trong thơ tượng Trưng Bích Khê, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
ệu êm). Hương thơm như chất keo, 
kết những tầng bậc cảm xúc vốn rất giàu có nơi ông. 
Có thể nói, Bích Khê là người đầu tiên và hiếm có và ca ngợi vẻ đẹp thân thể của 
người phụ nữ trong sự toàn vẹn, say sưa và nồng nhiệt nhất thơ Việt, ông đã phơi mở và đề 
cao thân thể phụ nữ. “Bích Khê là người đã sống, đã đụng chạm thái cực: tội lỗi và thanh 
cao, vật dục và tinh thần. Tiếng thơ Bích Khê là tổng hợp của tất cả những xao xuyến thắc 
mắc giữa linh hồn và thể xác” [11, tr.323]. Ông say sưa ca ngợi vẻ đẹp thể chất, không 
ngần ngại nói đến nhiều vẻ đẹp khoả thân của con người, nhất là người phụ nữ. Những vẻ 
đẹp ấy đi vào thơ đã được khoác lên những ý vị nên thơ của hương, của hoa, của nhạc, của 
trăng, của tuyết, khiến nó mất đi vẻ trần truồng dâm đãng, làm cho người đọc không hề 
cảm thấy cảm giác gớm ghiếc, nhục dục, mà ngược lại rung cảm đến tận tâm hồn, bị cuốn 
theo những câu thơ chứa đựng những xúc cảm bản năng đầy hấp lực. Và tự lối nói ấy đã 
bộc lộ một tư duy nghệ thuật độc đáo, bản lĩnh của người thi sĩ đa tài này. 
2.4. Hệ thống biểu tượng kinh dị (xác chết, nấm mộ, sọ người, xương, tủy, 
đầu lâu) 
Trong thế giới nghệ thuật của Bích Khê còn có một hệ thống biểu tượng đặc sắc, đó là 
hệ thống biểu tượng kinh dị với đầu lâu, sọ người, xương tủy, nấm mộ, xác chết... Những 
hình ảnh đó vốn quen thuộc của văn hoá Đông - Tây, nó tượng trưng cho con người lúc 
còn sống và là biểu hiện của sự chết chóc, hồn ma khi con người về với thế giới bên kia. 
Thế nhưng, khi xuất hiện trong thơ Bích Khê, nó trở thành một thứ khoái cảm, một cuộc 
đổi mới, nó mang lại những tưởng tượng thú vị, gợi ra một tương lai khác, một thế giới 
khác, rất thi vị và cao sang: Nhạc khiêu vũ đâu đây lan sóng múa/ Tôi tưởng chừng... da 
28 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
thịt biến ra thơm/ Những đầu lâu rã hết khí xanh dờn/ Những xiêm áo bay rờn trong cảnh 
mộng/ Cả địa ngục đi vào trăm lỗ hổng/ Bắn tinh ra trộn trạo giữa nguồn hương (Châu 
III); Ôi! Sọ người! Sọ người! - Gương phép tắc (Sọ người); Ừ, tội chi ta không vào địa 
ngục (Ăn mày); Anh đừng khiếp!- Lòng tôi mang địa ngục/ Trong phút lạ!- mơ hồ xương 
sọ vỡ (Một cõi trời); Anh đừng run! Đừng dại! Cũng đừng điên! Lẹ làm sao! Địa ngục hiện 
ra liền... (Một cõi trời); Ta những muốn màn đêm về cõi mộ (Đồ mi hoa). 
Quả thật, bước vào thế giới của địa ngục, chết chóc gồm những đầu lâu, xương tủy, 
hồn ma, mà ngỡ như bước vào thế giới lung linh, huyền bí. Không những nó là âm nhạc 
thơm tho với chiếc miệng yêu kiều mà còn là nụ, là mầm trinh nguyên làm tươi mới cuộc 
sống, là bầu sữa ngọt ngào và xua tan cả vạn sầu lo. Cái sọ người còn gợi lên cả một không 
gian tuyệt vời với đêm vàng, xanh mịt ngàn phi lau, biển ngọc bích, hoa thần bí, động đào 
nguyên... Rồi còn là gương phép tắc, luật thiên nhiên, là dung nhan trong tương lai của 
Ngọc Kiều, là nơi ẩn chứa bao đau khổ tuyệt vọng Ngọc Kiều ơi, hơi độc sắp tràn lan... 
Thủ pháp huyền ảo hoá đã làm nhoè đi ý nghĩa thật của sự vật, nhấn chìm nó vào cái mông 
lung, hư ảo, làm mờ đi tính kinh dị, gớm ghiếc, do đó rất nhiều liên tưởng được gợi lên từ 
Sọ người của Bích Khê. Sọ người đã đưa tư duy ta trượt khỏi những rãnh thông thường, đi 
theo một hướng mới, đọc rồi, suy nghĩ mãi mà vẫn thấy mỗi ngôn từ ẩn chứa điều bí ẩn 
mới. Bích Khê đã mở rộng “biên độ” của cái đẹp so với thơ ca truyền thống. Có thể nói, 
Bích Khê là một trong những người tiên phong đưa yếu tố kinh dị vào trong phạm trù cái 
đẹp của nghệ thuật. Bích Khê thực sự đã thi vị hoá cái tội lỗi, nhuốc nhơ, rùng rợn thành 
cái cao siêu, thơm tho, khoái lạc... Cái Sọ người rùng rợn với Bích Khê lại là một khối 
mộng cho hồn thơ chếnh choáng, một buồng xuân hơ hớ, một bình vàng, chén ngọc đầy 
hương, cả một hồ trăng lấp loáng và chứa ở đó cả một sự sống đầy tình thương người chứa 
một trời thương: Người yên tịnh nhưng người đi muôn dặm/ Máy thu thanh hoà âm nhạc 
thơm tho!/ Miệng yêu kiều mơn ánh sáng say no!/ Nguồn trinh tiết gây hồng tươi xanh 
thắm!/ Bầu sữa người êm mát vạn sầu lo (Sọ người). 
 Như vậy, rõ ràng quan niệm của Bích Khê, cái chết, địa ngục không phải là điều đáng 
sợ nhất đối với con người, nó nhẹ nhõm và thú vị biết bao, nó có thể mang lại cho con 
người những tưởng tượng đẹp đẽ về một tương lai khác, ở một thế giới khác. Các từ: Xác 
chết, chết khô, chết lòng... được xuất hiện với tần số dày đặc, chứng tỏ rằng, cái chết đối 
với Bích Khê không còn đáng sợ nữa, bởi một lẽ giản đơn, nó luôn là phần không thể thiếu 
của cuộc đời này. Đứng trước bệnh tật, cái chết, địa ngục Bích Khê có thái độ bình tĩnh, 
thanh thản: Ồ đừng có ngớp! Mời anh hãy bước; Anh đừng run, đừng dại, cũng đừng điên 
(Một cõi trời). Vì thế, trong bài Cặp mắt, Bích Khê đã thực sự thanh thản khi nói về cái 
chết, bởi “cõi chết” là nơi ông vẫn tìm ra “thi vị cao sang”, tìm ra những ý vị sâu xa của thế 
giới bên kia: Hơn một bận ta đi vào cõi chết/ Cạy nắp hòm tìm thi vị cao sang (Cặp mắt). 
Với Bích Khê, đau, chôn, sâu hóm, huyệt, mồ người, không còn là sự đau thương mà tất 
TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 34/2019 
29 
cả đã trở thành mơ ước, tình yêu, “xuân mười bốn”, quấn quýt với nhau trong tình yêu vĩnh 
cửu: Hãy để trong đau để ước mơ/ để yêu lờ lặng trong trang thơ/ Để chôn tất cả hờn vô 
hạn/ Sâu hóm trong đây huyệt chứ mờ (Tấm bia trước mộ thơ). Ngôi mộ là biểu tượng cho 
cái chết, cho sự chấm dứt sự sống của một cuộc đời, một con người, nhưng trong thơ Bích 
Khê, biểu tượng đó trở thành biểu tượng của nơi dừng chân và kết thúc của cuộc hành 
trình, là biểu tượng của sự an toàn, yên nghỉ vĩnh hằng, nơi chứa đựng và bắt đầu của một 
mầm sống, là nơi diễn ra cuộc thụ tháp cảu vạn vật khi bước sang một đời sống mới. Bởi 
cái chết khiến cho ông được đoàn tụ với người trong mộng: Thơ bay về suối mát âm ty/ 
Xác tôi chết lạnh trôi đi/ Lấy ai siêu độ từ bi/ Hồn xiêu hồn đến quy y bên nàng(Thơ bay). 
Những hình ảnh về xác chết, đầu lâu, xương tủy, máu mủ, sọ người, dưới cái nhìn của Bích 
Khê đã trở thành biểu tượng sắc màu rực rỡ và tràn ngập hương thơm đầy nhựa thơm, 
hương ngọt ngào. Hay là dự cảm cuộc ra đi của mình về thế giới bên kia, trong bài Nấm 
mộ, Bích Khê xem cái chết - tức giây phút hồn tôi đã thoát để tiêu dao là cuộc trở về giữa 
một không gian bát ngát hương: Rồi những mùa thu vô hạn thương/ Trở về dưới biếc chập 
chờn hương... 
Phải chăng, với việc xây dựng hệ thống biểu tượng kinh dị, Bích Khê muốn chuyển 
tải, cái đẹp của thơ ca đã bao hàm cái kinh dị, song đằng sau cái kinh dị đó là cả một thế 
giới mơ ước của tác giả đang hiện hình để mà chiêm ngưỡng, để mà hưởng thụ, thoả mãn 
những khát khao. Tình yêu cuộc sống và nghệ thuật đã giúp người nghệ sĩ tài hoa khám 
phá ra bao điều kì thú và một trong những điều kì thú ấy chính là việc ông phát hiện ra màu 
vị của sự chết chóc, nó cũng ngọt ngào, quyến rũ như bao thứ hương thơm khác và góp 
phần làm làm đẹp cho đời. 
3. KẾT LUẬN 
Tóm lại, hệ thống biểu tượng trong thơ Bích Khê phong phú, đa dạng và độc đáo. 
Chính sự phong phú, đa dạng và độc đáo đó đã làm nên một thế giới nghệ thuật thơ Bích 
Khê với những đặc điểm rất riêng, cuốn hút người đọc. Đó là một thế giới của ảo mộng, 
thăng hoa tâm hồn, của sự tương ứng, giao hoà giữa vạn vật, sự tương giao giữa hương 
thơm, âm thanh, ánh sáng và màu sắc; đó còn là một thế giới của cái đẹp và cái nên thơ, 
được tạo nên bởi những biểu tượng thiên nhiên thơ mộng, những vẻ đẹp của Giai nhân; đó 
là một thế giới của thanh khiết “sáng loáng tợ trân châu”. Đặc biệt, ở đó còn được tạo nên 
bởi những biểu tượng thân thể của con người khá toàn vẹn dưới cái nhìn của sự nâng niu 
hoàn mĩ; và hơn cả là những biểu tượng của kinh dị... Những biểu tượng đó vừa phong phú 
đa dạng, vừa độc đáo ấy đã làm cho thơ thi nhân luôn mới lạ, là những “mã hóa” mà chìa 
khóa giải mã nhà thơ đã cố tình mang theo về bên kia thế giới. Có thể thấy rằng, với những 
tìm tòi sáng tạo trong cách xây dựng thế giới biểu tượng, Bích Khê đã tìm ra được con 
30 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
đường riêng, một bản sắc riêng, độc đáo, mới lạ so với các nhà thơ cùng thời. Cùng với 
thời gian, thơ Bích Khê vẫn mãi là “đoá hoa thần dị” càng đọc càng thấy hay, càng ngắm 
càng hấp dẫn./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Võ Tấn Cường (2008), Bích Khê con chim yến của thời gian, - 
Nguồn www: vanhoc.trongnghia.info 
2. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, - Nxb Đà Nẵng 
- Trường viết văn Nguyễn Du. 
3. Hoài Chi (2008), Bích Khê: Cây đàn muôn điệu, - 
Nguồn www: thinhanquangngai. wordprress.com 
4. Trần Đăng (2006), Bích Khê: trong bóng nguyệt soi, - Nguồn www: baobinhdinh.com.vn 
5. Phan Cự Đệ (1982), Phong trào Thơ mới (1932 – 1945), - Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
6. Trần Thị Thu Hà (2007), Bích Khê: Từ Tinh huyết thần dị đến Tinh hoa thần linh, - Nguồn 
www: Bichkhe.org 
7. Trần Thị Thu Hà (2007), Tư duy nghệ thuật thơ Bích Khê - nhìn từ các cấp độ hình tượng thơ, 
- Nguồn www: Bichkhe.org 
8. Hoàng Thị Huế (2006), “Bích Khê và cách đánh giá của Hoài Thanh”, - Tạp chí Nghiên cứu 
văn học, (4), tr 96-103. 
9. Cao Huy Khanh (1997), Thơ bệnh Bích Khê, - Nguồn www: vanvietloc. googlepages.com 
10. Thụy Khê (2009), Nhạc và hoạ trong thơ Bích Khê, - Nguồn www: thuykhe.free.fr 
11. Tấn Long, Phan Canh (1962), Khuynh hướng thi ca tiền chiến, - Nxb Sống mới, Sài Gòn. 
THE SPECIFIC SYSTEM IN BICH 
KHE’S SYMBOLIC POETRY 
Abstract: Bich Khe (1916-1946) was one of the typical faces of The New Poetry 
Movement, a representative of Vietnamese symbolic poetry, and a poet who succeeded in 
building the symbolic system. Based on the survey of two collections of Tinh huyet and 
Tinh hoa (including 75 poems), the researcher finds that the symbol appears densely and 
systematically. The article refers to the symbol systems: the color symbol system; "sáng 
loáng tợ trân châu" symbol system; the physical symbol system; the horror symbol system. 
Keywords: The specific system; symbolic poetry; Bich Khe 

File đính kèm:

  • pdfhe_thong_bieu_tuong_dac_sac_trong_tho_tuong_trung_bich_khe.pdf