Xu thế sáng tác hướng tâm và ly tâm trong thơ Nguyễn Công Trứ

Tóm tắt: Trong bối cảnh lịch sử, văn hóa, văn học dân tộc thế kỷ XIX, xu thế sáng tác “hướng

tâm” và “ly tâm” trong tiếng thơ Nguyễn Công Trứ thể hiện sắc nét qua hệ thống quan điểm chính

trị, xã hội và hệ thống thẩm mỹ, chủ đề, chủ điểm. Xu thế sáng tác “hướng tâm” và “ly tâm” thể

hiện con người cá nhân Nguyễn Công Trứ. Tiếng thơ bộc lộ tính cách con người Nguyễn Công

Trứ. Ông sánh mình với đất rộng sông dài, trở về khép mình trên chiếc nôi quê hương. Vượt qua

mọi hệ lụy đời thường, Nguyễn Công Trứ đã góp thêm tiếng nói khẳng định bản ngã con người cá

nhân, khẳng định chí hướng lập thân, dấn thân nhập cuộc. Ông là kiểu nhà nho tài tử.

pdf9 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 492 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Xu thế sáng tác hướng tâm và ly tâm trong thơ Nguyễn Công Trứ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
cảnh làm quan), “Đố kỵ sá chi con tạo/Nợ 
tang bồng quyết giả cho xong” (Chí nam 
nhi), “Hỏi thư kiếm có hay chăng nhẽ/Nợ 
tang bồng giả đặng lúc này chăng/Ra tay 
chữa lệch cho bằng” (Đi quân thứ). 
Ông tính sổ kết toán cho chí nam nhi, nợ 
tang bồng, đường hoạn lộ và thỏa nguyện 
với chính mình. Ông viết: “Nợ sách đèn 
đem nghiên bút giả xong/Cầu xe ngựa lúc 
đi về mới tỏ”(Nợ tang bồng), “Vòng trời 
đất dọc ngang ngang dọc/Nợ tang bồng vay 
giả giả vay/Đường mây rộng thênh thênh cử 
bộ/Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo” 
(Chí khí anh hùng). 
Thế nhưng, Nguyễn Công Trứ lại phân 
biệt ra gánh nợ công danh cùng nợ phong 
lưu với tất cả những biến thể gắn với “duyên 
tri ngộ”, “phong tình”. Ông viết: “Nợ phong 
lưu ai nỡ chối không/Duyên tri ngộ nên đeo 
đẳng mãi” (Tài tình), “Thời nhân bất thức dư 
tâm lạc/ Mượn phong tình mà giả nợ phong 
lưu” (Nhàn nhân với quý nhân). 
Ông tiếp tục tính sổ giả - vay; và lại thấy 
rằng mình đã thấu hiểu qui luật, đã dám dấn 
thân nhập cuộc, đã lãi lớn trong cuộc chơi 
trên cõi nhân gian. Ông viết: “Nợ phong lưu 
dan díu mấy mươi lần/Thú thi tửu lại chen 
chân gánh vác” (Chơi xuân kẻo hết xuân đi - 
II), “Cõi trần thế nhân sinh là khách cả/Nợ 
phong lưu kẻ giả có người vay” (Nợ phong 
lưu - Cõi trần thế), “Nợ phong lưu tính đã 
lãi rồi/Ngàn vàng chác lấy trận cười” (Nợ 
phong lưu - Nhân sinh thất thập). 
 Trong gánh nợ phong lưu, Nguyễn 
Công Trứ đặt cược vào gánh nợ tình, chấp 
nhận sự trả giá, thua thiệt, rủi may, đan kết 
hạnh ngộ và đắng cay, có say và có tỉnh, có 
được và có mất, có duyên và có nợ. Ông 
viết: “Nợ nhà tình vay một trả mười/Duyên 
hội ngộ cũng lừa ba lọc bảy” (Trong trần 
mấy mặt làng chơi), “Đa tình là nợ/Mắc míu 
vào đố gỡ cho ra” (Chữ tình), “Trong trần 
thế duyên duyên nợ nợ/Duyên cũng đành mà 
nợ cũng đành” (Tuổi già cưới hầu). 
Nguyễn Công Trứ ý thức trên tất cả là 
gánh nợ làm người, gánh nợ sống giữa cõi 
đời, trong thời gian trăm năm hư ảo. Ông 
viết: “Người thế, giả nợ đời là thế/Của đồng 
 Nguyễn Hữu Sơn 
71 
lần thiên hạ tiêu chung” (Gánh trung hiếu), 
“Đã sinh ra ở trong phù thế/Nợ trần ai quyết 
sẽ tính xong” (Có chí thì nên). 
Vậy là, trong chiều hướng “ly tâm”, dù 
đặt cược vào lý tưởng lập thân, gánh nợ chí 
nam nhi “tang bồng hồ thỉ” hay phong lưu, 
thì trước sau Nguyễn Công Trứ vẫn giữ 
phận vị trong vòng cương tỏa, trong qui 
phạm bậc quân tử tài bộ. Ông viết: “Ông 
Hy Văn tài bộ đã vào lồng” (Ngất ngưởng). 
Tương đồng với nhiều nhà nho khác, 
Nguyễn Công Trứ cũng có nhiều bài thơ 
phê phán gay gắt, trực diện tỏ bày thái độ 
với cách gọi miệt thị những “thằng có của”, 
“đứa không nhà”; trực diện chỉ trích luôn cả 
“thói đảo điên khủng khỉnh”; thậm chí còn 
đưa vào thơ ngay cả tiếng mắng đổng đầu 
đường “Đù mẹ nhân tình”. Nhưng chủ yếu 
ông vẫn dừng lại ở việc phê phán nhân tình 
thế thái, hành vi đạo lý, nếp sống, quan hệ 
dân sự thường ngày. Đi xa hơn, Nguyễn 
Công Trứ bày tỏ sâu sắc mối quan hệ hành - 
tàng và điều này tiếp tục là một minh chứng 
cho tâm thế sáng tác “ly tâm”. Ban đầu, ông 
tự ý thức, tự phản tỉnh về chữ danh. Ông 
viết: “Lại mang lấy lợi danh vinh 
nhục/Cuộc đời kia lắm lúc bi hoan” (Chơi 
xuân kẻo hết xuân đi - I). 
Rồi ông cân đong, đo đếm và ngộ ra 
rằng, cái “nhàn” có khi còn hơn cái “danh”, 
thậm chí thấy ghê sợ mà chối bỏ cái 
“danh”, tìm đến cái “nhàn”. Ông viết: “Thái 
bình vũ trụ càng thong thả/Chẳng lợi danh 
chi lại hóa hay” (Thú ruộng vườn), “Chẳng 
lợi danh chi lại hóa hay/Chẳng ai phiền lụy 
chẳng ai rầy” (Thú ẩn dật), “Đem thân thế 
nương miền toàn thạch/Trốn đường danh 
mua lấy cuộc nhàn”(Con tạo ghét ghen). 
Thì hóa ra “danh” cũng phải mua, mà 
“nhàn” cũng phải mua; có lúc mua “danh”; 
có lúc mua “nhàn”; có lúc đổi nhàn lấy 
“danh”; có lúc đổi “danh” lấy “nhàn”. Ông 
viết: “Chen chúc lợi danh đà chán ngắt/Cúc 
tùng phong nguyệt mới vui sao/Đám phồn 
hoa trót bước chân vào/Sực nghĩ lại giật 
mình bao kể xiết” (Thoát vòng danh lợi), 
“Khi lang miếu đã đành công danh ấy/Lúc 
yên hà khước thị xuất nhân gian/Hành tàng 
bất nhị kỳ quan/Cõi đời mở mặt giang sơn 
thái hoà”(Hành tàng). 
Nguyễn Công Trứ ngộ ra rằng, cái 
“danh” kia chỉ là lâm thời, tạm thời, nhất 
thời, chỉ có ý nghĩa khi đang hành đạo; còn 
cái “nhàn” mới vững bền mãi mãi. Cái 
“danh” gắn với đám người thế gian, thế 
tình, với cõi nhân vi, chốn thị thành xa mã. 
Trong khi đó cái “nhàn” lại tồn tại với tạo 
hóa, vũ trụ, đất trời, thế giới tự nhiên, thiên 
nhiên thanh sạch, phong hoa tuyết nguyệt, 
trăng trong gió mát, mây bay gió thổi, núi 
rộng sông dài muôn thuở. Qui chiếu mối 
quan hệ hành - tàng, danh - nhàn với những 
sắc thái khác, Biện Minh Điền nhấn mạnh: 
“Có thể nói, hơn ai hết, Nguyễn Công 
Trứ hành đạo thì hành đạo đến nơi đến 
chốn, nhưng mặt khác, hành lạc thì hành 
lạc cũng đến mức tối đa, nói ngôn chí, ngôn 
chí đến tận cùng, cổ vũ hành lạc thì cổ vũ 
đến mức tột đỉnh. Con người này không 
chấp nhận dạng lưng chừng, nửa vời, mà 
dám chấp nhận tất cả mọi đối cực ở phía 
đỉnh điểm của nó. Ngoài cá tính mạnh mẽ, 
ngang tàng của Nguyễn Công Trứ, còn có 
sự tham gia của nhiều yếu tố, trong đó có 
sự tham gia của yếu tố loại hình nhà nho ở 
trong ông” [2]. 
Sau khi đã hồi tỉnh về cái “danh”, 
Nguyễn Công Trứ chuyển hóa chí nguyện 
hành đạo theo nhiều nẻo đường khác nhau. 
Trong hồi tỉnh đó có ám ảnh của đạo tu 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2019 
72 
tiên, muốn thoát ly cõi trần; có sự nhập 
cuộc hiện sinh với tất cả những sự bất cần, 
ngất ngưởng “thú ăn chơi”, “xa mã thị 
thành”, “bầu rượu túi thơ”; có ý muốn lui 
về nơi non xanh cảnh vắng (“giang sơn 
phong nguyệt”, “Cầm hạc tiêu dao”, “Mây 
về ngàn Hống”); thêm nữa, có những thú 
đàn địch, ca lâu, tổ tôm, rượu nồng và gái 
đẹp (với những Tương tư, Trách tình nhân, 
Bỡn tình nhân, Bỡn cô đào già, Duyên gặp 
gỡ, Ca tự biệt, Một ngày là nghĩa, Lời thiếp 
tự tình). Trên tất cả, khi thoát vòng danh 
lợi, hầu như Nguyễn Công Trứ đã trở thành 
một ông ngất ngưởng siêu cá nhân cá thể, 
vừa là thế này vừa là thế kia, vừa không là 
thế này mà cũng chẳng là thế kia. Ông viết: 
“Đô môn giải tố chi niên/Đạc ngựa bò vàng 
đeo ngất ngưởng/Kìa núi nọ phau phau mây 
trắng/Tay kiếm cung mà nên dáng từ bi/Gót 
tiên theo đủng đỉnh một đôi dì/Bụt cũng 
nực cười ông ngất ngưởng/Được mất dương 
dương người tái thượng/Khen chê phơi phới 
ngọn đông phong/Khi ca, khi tửu, khi cắc, 
khi tùng/Không Phật, không tiên, không 
vướng tục”(Ngất ngưởng). 
Tuy nhiên, con người tung phá dọc 
ngang trời đất ấy trước sau cũng chỉ là tung 
phá với chính mình, tung phá đến hết mình. 
Điều đó nào đâu có hại đến ai, chưa động 
chạm đến đấng bậc bề trên. Vậy nên, con 
người ngất ngưởng siêu cá thể cá nhân 
Nguyễn Công Trứ lại đi đến mấy câu kết 
hướng tâm về những tấm gương danh thần, 
danh nho và dung hòa, giới hạn sự ngất 
ngưởng trong phép tắc qui phạm, phải đạo. 
Ông viết: “Chẳng Hàn, Nhạc cũng phường 
Mai Phúc/Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ 
chung/Đời ai ngất ngưởng như ông”. 
Có điều thật lạ, một nhà nho tài tử, 
phóng dật, ngang tàng, ngất ngưởng như 
Nguyễn Công Trứ lại có nhiều câu thơ nói 
về Phật giáo, nhiều ý thơ biểu lộ sâu sắc 
cảm quan Phật giáo; thậm chí có cả bài thơ 
Vịnh Phật thật sự sâu sắc. Về điều này, 
chúng tôi từng xác định: “Cuộc đời nhà 
Nho Nguyễn Công Trứ là cả một sự nối tiếp 
những tháng năm dấn thân, nhập cuộc 
không ngừng nghỉ. Tuy nhiên, trên từng 
chặng đường đời và đến cuối cuộc đời, ông 
vẫn phải nhìn lại, tính đếm lại, tổng kết lại 
tháng năm quá khứ. Chính những thời khắc 
đó đã cho phép ông có được cách đánh giá, 
hình dung về cõi đời và kiếp người thông 
kênh với quan niệm Phật giáo. Nguyễn 
Công Trứ căn bản là nhà Nho hành đạo 
nhưng hiện tượng “dĩ Nho nhập Thích” ở 
ông càng soi sáng thêm giá trị nhân văn và 
chiều sâu minh triết Phật giáo, khả năng 
hòa giải, dung nạp của Phật giáo đối với các 
nguồn tư tưởng khác” [8]. 
4. Kết luận 
Xu thế sáng tác “hướng tâm” và “ly tâm” 
tạo thành những đối cực trong tiếng thơ 
Nguyễn Công Trứ. Tuy nhiên, mọi sự “ly 
tâm” ở Nguyễn Công Trứ tuy tưởng đi đến 
tận cùng mọi gam độ con người cá nhân cá 
thể, nhưng thực chất lại là việc trổ ra những 
cánh cửa tự do khác nhau mà hầu như 
không đi ngược, không động chạm, phản 
bác, công kích, công phá vào thể chế Nho 
giáo chính thống. Vậy nên sự “ly tâm” ở 
đây là có điều kiện, có chiều hướng và giới 
hạn nhất định. Điều này chứng tỏ rằng, kiểu 
tác gia văn học, nhà nho hành đạo Nguyễn 
Công Trứ trong bối cảnh lịch sử, văn hóa, 
văn học dân tộc thế kỷ XIX có sự khác biệt 
 Nguyễn Hữu Sơn 
73 
với những kiểu tác gia Nguyễn Du, Hồ 
Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn 
Khuyến, Tú Xương... 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Duy Diễn (1953), Luận đề về Nguyễn 
Công Trứ, Nxb Thăng Long, Hà Nội. 
[2] Biện Minh Điền (2009), “Sự thống nhất những 
đối cực trong phong cách nghệ thuật Nguyễn 
Công Trứ”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 3. 
[3] Đoàn Tử Huyến (Chủ biên) (2008), Nguyễn Công 
Trứ trong dòng lịch sử, Nxb Nghệ An, Trung 
tâm văn hóa ngôn ngữ Đông - Tây, Nghệ An. 
[4] Nguyễn Lộc (1999), “Nguyễn Công Trứ”, Văn 
học Việt Nam (Nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế 
kỷ XIX), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
[5] Nguyễn Hữu Sơn (1991), “Tâm lý sáng tạo 
 trong thơ Hồ Xuân Hương”, Tạp chí Nghiên 
 cứu Văn học, số 2. 
[6] Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Nguyễn Công Trứ - 
Phải có danh gì với núi sông”, Tạp chí Văn 
hóa Nghệ thuật, số 10. 
[7] Nguyễn Hữu Sơn (2005), “Cao Bá Quát và 
những suy tưởng trong thơ”, Tạp chí Nghiên 
cứu Văn học, số 2. 
[8] Nguyễn Hữu Sơn (2009), “Nhà nho Nguyễn 
Công Trứ với Phật giáo”, Tạp chí Nghiên cứu 
Văn học, số 3. 
[9] Lê Thước (1928), Sự nghiệp và thi văn của Uy 
Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ, Lê Văn 
Tân Xb, Hà Nội. 
[10] Nguyễn Công Trứ (2008), “Đi thi tự vịnh”, 
Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Nxb 
Nghệ An, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông - 
Tây, Nghệ An. 

File đính kèm:

  • pdfxu_the_sang_tac_huong_tam_va_ly_tam_trong_tho_nguyen_cong_tr.pdf