Từ Nguyễn Lân đến Hoàng Tuấn Công, giải nghĩa tiếng Việt sao cho đúng!

Cuốn Từ điển tiếng Việt của GS Nguyễn Lân - Phê bình và khảo cứu của

Hoàng Tuấn Công (HTC), từ đây gọi tắt là sách HTC (Nhà xuất bản Hội Nhà văn,

Hà Nội, 2017) thu hút sự quan tâm, chú ý của đông đảo bạn đọc, cũng như những

ai quan tâm đến văn học, ngôn ngữ nước nhà từ khi nó còn “phôi thai” dưới dạng

các bài viết nhiều kỳ trên trang điện tử cá nhân, nhật ký online của tác giả. Không

ai có thể phủ nhận sự công phu, giá trị khoa học của phần lớn nội dung cuốn sách.

Sở dĩ chúng tôi dùng chữ “phần lớn nội dung” bởi đây đó vẫn còn những chỗ,

những đoạn cần được trao đổi. Đã đành Nguyễn Lân (NL) sai song không vì thế

mà chúng ta không góp ý với HTC để cuốn sách của anh ngày càng hoàn thiện.

pdf7 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Từ Nguyễn Lân đến Hoàng Tuấn Công, giải nghĩa tiếng Việt sao cho đúng!, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
ng ít dẫn chứng khác, song như đã nói (NL sai không có nghĩa HTC 
hoàn toàn đúng) và do dung lượng bài viết nên ở các trường hợp dưới đây, chúng 
tôi không nhắc lại cái sai của NL nữa, mà chỉ tập trung vào những điểm thiếu chính 
xác của HTC.
8. Khi luận giải câu “thiếu đất trồng dừa, thừa đất trồng cau” (tr.140), về 
cơ bản, cách giải thích cho việc “thiếu đất trồng dừa” tương đối hợp lý nhưng sao 
lại “thừa đất trồng cau”? Theo HTC, “cau chỉ mọc thẳng (nên được dân gian mệnh 
danh là Nhất trụ kình thiên - Một cột chống trời, tượng trưng cho khí phách hiên 
ngang, thẳng thắn). Phải đất tốt, rộng rãi, thoáng đãng, cau mới lớn và cho quả”.
Một thực tế ai cũng biết là với cau, người ta thường trồng hai cây, thậm chí là 
hai hàng đối xứng qua một trục (con ngõ) hoặc trồng thành hàng dài (dọc bờ rào, 
trước sân hay Tiền đường các ngôi chùa). Thêm nữa, khoảng cách giữa các cây 
cau khá lớn (lên tới một/vài mét) nên cần diện tích rộng (thừa/nhiều đất) chứ không 
phải do yếu tố “Nhất trụ kình thiên, tượng trưng cho khí phách hiên ngang, thẳng 
thắn” của cau. Chưa hết, “đất tốt, rộng rãi, thoáng đãng” là điều kiện rất tốt nhưng 
không phải bắt buộc và duy nhất để cau sinh trưởng, ra hoa kết trái. Chẳng phải 
những cây cau trong chậu cảnh (đất ít, chật chội) vẫn tươi tốt và cho quả sao?
9. Ở khía cạnh khác, dù vẫn sâu sắc, kín kẽ nhưng HTC không tránh khỏi sự 
cứng nhắc dẫn đến sai lầm trong cách hiểu, giải thích vế so sánh “trắng như bông” 
(tr.150): trắng với vẻ xốp, tựa như bông!
130 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
Cần phải xác định, khi ví “trắng như bông” thì “bông” là đối tượng so sánh, 
đặc tả màu sắc (trắng) chứ không phải là đặc tính (xốp). Chẳng hạn như câu đồng 
dao “Cơm trắng như bông/Gạo tiền như muối” (bài đồng dao Thả đỉa ba ba) phải 
hiểu “cơm trắng như bông” ấy là do nấu bằng thứ gạo tốt và không bị trộn lẫn bởi 
màu vàng, đục của ngô, khoai, sắn (cơm độn); không phải nồi cơm “trắng với vẻ 
xốp” (dẫu sau khi nấu, người ta thường dùng đũa cả để đánh cho tơi/xốp). 
Vài trao đổi về phương pháp luận
Ở phần khảo cứu thành ngữ “Ruộng giữa đồng, chồng giữa làng”, HTC 
tập trung vào sai sót của NL khi lý giải nghĩa của từ “giữa”: “Giữa” ở đây không 
những chỉ vị trí (địa lý) mà còn có nghĩa là ngay tại, ở chính tại, rất gần. [Vè nhật 
trình từ Ninh Bình vào Thanh Hóa: “Thùng thùng trống đánh ngũ liên/ Chợ Gia 
trước mặt, quán Nam giữa đàng]” (tr.24).
Trước hết, Thùng thùng trống đánh ngũ liên là câu đầu của bài ca dao 
Ngang lưng thì thắt bao vàng (tạm lấy câu mở đầu làm tên gọi: Ngang lưng thì 
thắt bao vàng/ Đầu đội nón dấu vai mang súng dài! Một tay thì cắp hỏa mai/ Một 
tay cắp giáo quan sai xuống thuyền/ Thùng thùng trống đánh ngũ liên/ Bước chân 
xuống thuyền nước mắt như mưa.(1) Còn câu Chợ Gia trước mặt, quán Nam giữa 
đàng thuộc bài Thùng thùng trống đánh quân sang: Thùng thùng trống đánh 
quân sang/ Chợ Già (Gia) trước mặt, quán Nam (ngang) bên đàng (đường)/ Qua 
Chiêng thì rẽ sang Giàng/ Qua quán Đông Thổ vào làng Đình Hương/ Anh đi theo 
chúa Tây Sơn/ Em về cày cuốc mà thương mẹ già. 
Lỗi “thoát ly văn bản” này có thể thông cảm, bởi chúng tôi tin rằng HTC biết 
hai bài ca dao này nhưng do chủ quan, quá tự tin vào trí nhớ nên mới lấy “râu ông 
nọ cắm cằm bà kia”. Tương tự, bài hát do cố nhạc sĩ An Thuyên sáng tác là “Chín 
bậc tình yêu” chứ không phải “Chín bậc cầu thang” (tr.284) như hàn sĩ xứ 
Thanh nhầm lẫn. “Chín bậc cầu thang” thì còn gì là thơ, là nhạc nữa?
Bỏ qua câu Thùng thùng trống đánh ngũ liên (không ăn nhập đến câu sau - do 
tác giả nhầm lẫn), có vẻ như bởi đã mặc định bài Thùng thùng trống đánh quân 
sang là “vè nhật trình từ Ninh Bình vào Thanh Hóa” nên HTC không dẫn nguồn. 
Chúng tôi được biết những câu này đã hiện diện trong ít nhất hai văn bản: Tục ngữ, 
dân ca, ca dao, vè Thanh Hóa (Miền xuôi, trước Cách mạng tháng Tám)(2) và cuốn 
Lịch sử Việt Nam trong tục ngữ - ca dao (đã dẫn). Cả hai văn bản đều xếp vào thể 
loại Ca dao và chép “bên đàng”, trong khi HTC ghi “giữa đàng”.
Nhìn tổng thể nội dung bài ca dao/vè nhật trình thì “bên đàng” hay “giữa 
đàng/đường” đều không ảnh hưởng hay làm sai lệch ý nghĩa. Tuy nhiên, trong khảo 
cứu, tranh luận, nhất là khi HTC dùng hai âm tiết “giữa đàng” làm minh chứng để 
phủ nhận cách hiểu từ “giữa” của NL (trong câu Ruộng giữa đồng, chồng giữa làng) 
thì phải trích dẫn đúng nội dung. Không nên sử dụng một bài văn vần vốn không 
131Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
có từ mà mình lấy làm dẫn chứng (từ “giữa”) để phê bình và khảo cứu. Nên 
chăng, ở trường hợp này, HTC hãy tìm một ví dụ khác thay cho bài “vè nhật trình”.
Một biểu hiện thiếu thuyết phục nữa trong phương pháp luận của HTC là sử 
dụng yếu tố địa phương để giải thích cho cái toàn dân.
Ở câu “Bán bò tậu ễnh ương” (tr.70), nhằm lý giải cho con vật được gọi tên 
là bò “cóc”, “ễnh ương”, HTC sử dụng quan điểm của một học giả người Pháp 
(C.Robequain) trong những ghi chép về tỉnh Thanh Hóa (Le Thanh Hoa) để khẳng 
định: loại bò gầy, suy dinh dưỡng, bụng ỏng đít beo, được dân gian ví với con ễnh 
ương (vùng Thanh Hóa còn gọi là “bò cóc”) và “bán bò tậu ễnh ương” là “bán 
một con bò tốt, mua về con bò khác còi cọc gầy ốm, “bụng ỏng đít beo” trông như 
con ễnh ương”.
HTC hai lần gắn biểu hiện “bụng ỏng đít beo” thường dùng miêu tả con 
người (nhất là trẻ em suy dinh dưỡng, còi cọc, nhiễm giun) cho bò. Song quan 
trọng hơn, khái niệm “bò cóc”, “bò ễnh ương” (nếu có) chỉ là cách gọi cá biệt ở 
một địa phương (Thanh Hóa) nên ít thông dụng, không nhiều người biết (hy vọng 
HTC đang có vài ba nguồn tư liệu khác nói về loại bò cóc/ễnh ương).
Đó là chưa kể HTC còn tự mâu thuẫn với chính mình khi khẳng định: ễnh 
ương có thể hiểu là “bò cóc”, “bò ễnh ương” nhưng lại trích dẫn bài ca dao: 
Nhà anh khéo liệu khéo lo/ Bán một con bò tậu cái ễnh ương/ Đem về thả ở gầm 
giường/ Đêm nằm ương ộp lại thương con bò” để minh họa. Nếu ễnh ương là “bò 
cóc” thì không lẽ chủ nhân thả bò “ở gầm giường”? Và dù có gầy còm, ốm yếu, 
“bụng ỏng đít beo” thì bò cóc vẫn là bò chứ! Sao có thể kêu ương ộp?
Ở góc độ khác, HTC còn dùng yếu tố cá biệt để chứng minh cho cái phổ 
quát, dùng lăng kính hiện đại để giải thích thành ngữ cổ, lấy ví dụ như cách hiểu 
câu “vợ đàn bà nhà hướng nam” (tr.436). 
Đại ý, HTC khen ngợi tục ngữ “vô cùng sâu sắc, kinh nghiệm, đi trước thời 
đại”. Yếu tố “đi trước thời đại”, người viết hiểu là HTC đề cập đến những dự đoán 
về các đối tượng “nam không ra nam, nữ không ra nữ (lỗi tạo hóa theo dân gian 
hay rối loạn giới tính theo khoa học)” - thuật ngữ mới. Dù không xác định được 
niên đại câu tục ngữ, nhưng theo diễn giải của HTC thì tại thời điểm ra đời (câu 
tục ngữ), dân gian biết trước tương lai sẽ có những người “rối loạn giới tính” nên 
đã “đi trước thời đại”, cẩn thận dặn dò con cháu: “đàn bà hay đàn ông cũng có 
năm bảy loại” lấy vợ phải lấy “đàn bà thực sự”, đừng lấy người bị “lỗi tạo hóa”, 
“nữ không ra nữ”! 
Theo từ điển trực tuyến wikipedia thì tại thời điểm năm 1980 - “ước tính có 
khoảng 0,005% đến 0,014% nam giới và 0,002% đến 0,003% nữ giới được chẩn 
đoán mắc chứng Rối loạn định dạng giới, dựa trên các tiêu chí chẩn đoán hiện tại” 
132 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
- tỷ lệ rất thấp. Không rõ quan điểm của cổ nhân với các trường hợp này ra sao (?), 
còn chúng tôi thấy việc HTC dùng trường hợp cá biệt (tạm lấy con số 0,002% đến 
0,003% phái nữ rối loạn định dạng giới) để giải thích khái niệm “vợ đàn bà” rất 
khiên cưỡng. 
Cũng không rõ HTC căn cứ vào tiêu chí nào để xác định “đàn ông thực thụ 
tướng mạo khôi ngô, rắn rỏi, bản lĩnh vững vàng, trượng nghĩa đàn bà thực sự 
phải mang vẻ đằm thắm, dịu dàng, chu đáo, biết thương chồng thương con, xây 
dựng cho tổ ấm gia đình Chẳng may vớ phải cô vợ trông thô kệch như đàn ông, 
ăn to nói lớn, vụng về, ấy là lấy phải người vợ không phải đàn bà”. Xin hỏi HTC 
xếp đàn ông “xấu trai, yếu đuối, kém bản lĩnh” cùng những phụ nữ “chẳng may vớ 
phải không phải đàn bà” nói trên vào giới/giống/loài nào?
“Vợ đàn bà, nhà hướng nam” theo chúng tôi là dị bản của “Lấy vợ hiền hòa, 
làm nhà hướng nam” (hay Vợ hiền hòa, nhà hướng nam) mà chẳng cần nhọc công 
khảo cứu, người bình dân nào cũng hiểu: Lấy vợ nên chọn người hiền hòa, làm nhà 
nên theo hướng nam!
Trên đây chỉ là một/vài trong số những ý kiến muốn trao đổi, xung quanh nội 
dung cuốn sách của HTC, một “hiện tượng” xuất bản và học thuật ở thời điểm hiện 
tại với hy vọng nếu sách được tái bản, chất lượng của nó sẽ còn tốt hơn! 
 P V T H
CHÚ THÍCH
(1) Có thể có dị bản. Nguyên văn được trích từ cuốn Lịch sử Việt Nam trong tục ngữ - ca dao, 
Nguyễn Nghĩa Dân (2010), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. Theo Nguyễn Nghĩa Dân, bài 
trước “nói về binh lính thời phong kiến ở nước ta”, bài sau nói về nhân dân vùng lên theo 
Nguyễn Huệ ra Bắc đánh quân Thanh.
(2) Lê Huy Trâm, Hoàng Khôi, Lưu Đức Hạnh sưu tầm và biên soạn, Nxb Thanh Hóa, 1983.
TÓM TẮT
Cuốn “Từ điển tiếng Việt của GS Nguyễn Lân - Phê bình và khảo cứu” của tác giả Hoàng 
Tuấn Công vừa ra đời đã thu hút sự quan tâm, chú ý của đông đảo bạn đọc. Nhìn chung đây là 
một công trình khảo cứu công phu, có giá trị khoa học, nhưng vẫn còn một đôi chỗ cần được trao 
đổi, góp ý với tác giả. Bài viết này trao đổi ý kiến về một số nội dung của cuốn sách nói trên với 
hy vọng nếu được tái bản, chất lượng của nó sẽ còn tốt hơn.
ABSTRACT
FROM NGUYỄN LÂN TO HOÀNG TUẤN CÔNG 
– HOW TO ACCURATELY EXPLAIN VIETNAMESE WORDS AND IDIOMS?
The appearance of “Vietnamese Dictionary of Professor Nguyễn Lân - Critique and 
Research” by Hoàng Tuấn Công has attracted the attention of many readers. In general, it is an 
elaborate scientific work, but there are some places that need to be discussed with the author. 
This article discusses some of the contents of this book in the hope that its quality will be improved 
if being reprinted.
133Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017

File đính kèm:

  • pdftu_nguyen_lan_den_hoang_tuan_cong_giai_nghia_tieng_viet_sao.pdf