Chiến tranh Việt Nam trong văn học Mĩ

Tóm tắt

Sự can dự của Hoa Kì trong chiến tranh Việt Nam kết thúc vào tháng 4 năm 1975 khi những lính Mĩ

cuối cùng rút về nước đã trở thành một chủ đề rộng lớn và phong phú cho các tác phẩm văn học. Bài

viết đi vào khảo sát một số vấn đề cơ bản của văn học Mĩ viết về chiến tranh gồm các hệ chủ đề được

phân chia theo từng giai đoạn chiến tranh và theo thể loại. Qua đó, bài viết khẳng định vai trò của bộ

phận văn học này trong việc lưu giữ và làm sống lại bộ mặt thật của chiến tranh Việt Nam, góp phần tạo

nên tiếng nói đa nghĩa về đất nước, văn hóa và ý thức con người Mĩ trong cuộc chiến tranh này.

pdf6 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 338 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Chiến tranh Việt Nam trong văn học Mĩ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
g chủ yếu vào văn xuôi 
và một số tác phẩm đa thể loại, trong đó, 
tiểu thuyết là một hình thức phát triển hơn 
cả. Với dung lượng dài và những đặc trưng 
riêng có thể giúp phản ánh sâu sắc, cơ bản 
và nhạy bén nhất sự chuyển biến của hiện 
thực chiến tranh, tiểu thuyết đã trở thành 
thể loại hữu hiệu hơn cả trong việc lưu giữ 
và làm sống lại bộ mặt thật của chiến tranh 
Việt Nam, trở thành tiếng nói đa nghĩa về 
đất nước, văn hóa và ý thức con người Mĩ 
trong cuộc chiến tranh này. Tiểu thuyết về 
chiến tranh Việt Nam của Mĩ có chung 
nhiều mối quan tâm với thơ, đặc biệt là 
việc tìm kiếm ý nghĩa của tầm quan trọng 
về hành vi và kết quả của cuộc xung đột 
mà Việt Nam đã tác động đến trí tưởng 
TRẦN THỊ PHƯƠNG LÝ 
39 
tượng của người Mĩ trong những cách thức 
mà không cuộc chiến nào khác có. 
Người Mĩ đã chia thời gian thực hiện 
chiến tranh Việt Nam của họ thành 3 giai 
đoạn: “Giai đoạn cố vấn” (1954-1965), 
Giai đoạn: Chúng ta có thể chiến thắng 
không?” (1965-1968) và Giai đoạn “Chúng 
ta thoát ra như thế nào đây ?” (1968-1973). 
Tiểu thuyết viết về chiến tranh Việt Nam 
của Mĩ về cơ bản cũng có thể chia thành ba 
bộ phận theo các mốc thời gian này với 
hình tượng trung tâm là người lính, được 
soi rọi từ nhiều góc độ, gắn liền với sự vận 
động thời gian- thời gian trong cuộc chiến 
và thời gian hậu chiến. 
Một số tác phẩm nổi bật về chiến 
tranh ở giai đoạn đầu bao gồm tiểu thuyết 
Người Mĩ trầm lặng (The Quiet American-
1955) của nhà văn Graham Greene, Những 
chiếc mũ nồi màu xanh lá (The Green 
Berets-1965) của Robin Moore, Tại sao 
chúng ta ở Việt Nam (Why Are We in 
Vietnam-1967) của Norman Mailer, Một 
ngày nắng gắt (One very hot day-1968) của 
David Halbatstam  Trong đó, tiêu biểu 
nhất là tác phẩm Một ngày nắng gắt 
(1968). Với dự cảm sớm thấy được nguy 
cơ của việc can thiệp sâu vào Việt Nam, 
thông qua nhân vật trung tâm Bob, David 
Halbatstam đã lên tiếng phản đối chiến 
tranh, nêu lên sự “kinh ngạc và căm phẫn 
(một cách kín đáo) trước tính cách tàn bạo 
và vô nghĩa lí của tất cả những việc đang 
diễn ra”. 
Các tác phẩm thuộc về phản ánh giai 
đoạn hai của cuộc chiến tranh (1965-1968) 
tập trung vào việc phản chiếu sự khủng 
khiếp của chiến tranh, sự hoài nghi tột 
cùng của người lính và những mâu thuẫn 
cơ bản của xã hội Mĩ và thậm chí những 
vấn đề đáng nguyền rủa của đời sống, tạo 
thành một bức tranh hoàn chỉnh mô tả về 
sự thật chiến tranh Việt Nam với tất cả chủ 
đề. Tiểu thuyết Đi sau Cacciato (1978) của 
Tim O’Brien là sáng tác kết hợp những kí 
ức của nhân vật chính với cuộc hành trình 
tưởng tượng đến Pari với những nỗi kinh 
hoàng của chiến tranh. Những cánh đồng 
bốc cháy (1978) của nhà văn J. Weeffer thì 
đi sâu vào phân tích tâm lí những người 
lính bị thương trong chiến đấu. Bổ sung 
vào chủ đề này còn có các tác phẩm Tất cả 
những thứ chúng ta có (1981) A. Skelltole 
tập hợp tất cả các câu chuyện của 33 người 
lính và những ngày tháng địa ngục của họ 
ở Việt Nam hay Thung lũng thứ 13 (1982) 
của John Del Vecchio, Máy bay khu trục 
(1983) của R. Marson... Trong từng cuốn 
tiểu thuyết, sự ác liệt của chiến tranh, hơi 
nóng của bom đạn, sự đau đớn của người 
bị thương, chết, nỗi kinh hoàng, suy nhược 
tinh thần của người lính đều được mô tả 
“rất thực và sống động, vượt xa hẳn bất kì 
chương trình vô tuyến nào đã phát trong 
thời gian chiến tranh” [4,12]. 
Bên cạnh chủ đề phản ánh đau thương, 
mất mát, một số tác phẩm còn xoáy vào 
chủ đề số phận người lính da đen ở Việt 
Nam và nạn phân biệt chủng tộc trong 
quân đội Mĩ như Đơn vị xạ kích (1975) của 
J. Kranzer và Anh em trai: Những người 
lính da đen ở Việt Nam (1982) của S. 
Gowffer. Có thể khẳng định hầu hết các 
tiểu thuyết về chiến tranh như thế cuối 
cùng đều đã vượt xa những câu chuyện về 
chiến đấu ở nước ngoài để cung cấp cái 
nhìn sâu sắc về sự phát triển của xã hội Mĩ 
trong suốt những năm 1960 và 1970. 
Tiểu thuyết ở giai đoạn thứ ba ở cuộc 
chiến tranh (1968-1973) như tổng kết của 
Nguyễn Hồng Dũng đã đặc biệt chú ý đến 
thể hiện tinh thần thảm bại của binh lính 
Mĩ, tiêu biểu là tiểu thuyết Bông hoa của 
con rồng (1972) của R. Boille viết về 
CHIẾN TRANH VIỆT NAM TRONG VĂN HỌC MĨ 
40 
những vụ giết sĩ quan và nổi loạn trong 
quân đội hay Kết liễu cuộc đời (1968) của 
Michell đã đi sâu hơn nữa vào những nổi 
loạn của rất nhiều binh lính Mĩ ở Việt 
Nam. Các tiểu thuyết Những điều sửa đổi – 
22 (1969) của D. Keller, Chiếc giường 
tre (1969) của Yalker và Trung tâm 
Kachiater (1975) của T. Brael lại miêu tả 
những hành vi kì quặc của người lính, kẻ 
thì thu mình lại, kẻ thì hóa điên. 
Ngoài ra, còn có một số tác phẩm có 
giá trị khác như Quân đội màu xanh (Army 
Blue-1989) của Lucian K. Truscott IV, Cái 
mề đay (The Mdallion-1989) của John 
Ams, Giấc mơ lửa (The Fire Dream-1989) 
của Franklin Allen Leib, Những gì mà họ 
mang theo (The Things They Carried-
1990) của Tim O’Brien, Giấc mộng 
Phantom (The Phantom Blooper-1990) của 
Gustar Hasford... 
Các tác phẩm khác, chẳng hạn như 
Trong nước (In Country-1984) của Bobbie 
Ann Mason và Câu chuyện của Paco 
(Paco’s Story-1987) của Larry Heinemann 
lại chú tâm vào những câu chuyện về các 
cựu chiến binh cố gắng để hòa nhập lại với 
cuộc sống đời thường. Tuy nhiên, cũng 
như phần đa sự phản ánh trong các tác 
phẩm hậu chiến khác, các nhân vật chính- 
những người lính trở về từ chiến tranh 
trong những tác phẩm này đều nhận ra rằng 
họ là nạn nhân của cuộc chiến tranh tàn 
khốc mà chính phủ Mĩ đã đẩy họ vào và 
đúng như S. Freedman đã từng nhận xét 
rằng phần lớn họ: là những con người sống 
sót đã chiến đấu trong cảnh tồi tệ và trở về 
sống trong một nước Mĩ kinh hoàng. Tiểu 
thuyết Máu Mĩ của John Nicholair đã lên 
án sự tàn bạo của cuộc chiến tranh, chỉ 
thẳng “nước Mĩ là tên sát nhân của thế 
giới, là cái chợ bán thịt của trần gian”. 
Những năm tháng đẹp nhất của chúng 
ta của H. Russell, Sinh ngày 4 tháng 7 của 
John Cowike thì nói về những thanh niên 
bị chiến tranh làm tàn phế và sự căm phẫn 
của họ đối với chính phủ Mĩ. Từ địa ngục 
trở về của A. Murthy hay Người anh hùng 
có một trăm gương mặt của J. Cambell, Câu 
chuyện Pacô của Larry Heneman đều 
chung âm hưởng nói về sự vô nghĩa, thất 
bại của cuộc chiến tranh Việt Nam. 
Bên cạnh đó, phần lớn tiểu thuyết 
cũng đều nói về một dạng chung thường 
thấy của “hội chứng Việt Nam”, đó là khai 
thác tâm lí phức tạp, hỗn loạn của cựu 
chiến binh Mĩ, sự săn đuổi của quá khứ, sự 
dằn vặt về những tội ác mà mình đã gây ra. 
Hội chứng chiến tranh Việt Nam đã khiến 
họ không hòa nhập được với cuộc sống 
bình thường, bị ám ảnh bởi cuộc chiến, về 
cái chết và cả những gì họ đã làm, họ mang 
tâm hồn bị tổn thương bởi chiến tranh. 
Những người lính Mĩ sau khi trở về mang 
một thân thể tàn tạ, ý chí mệt mỏi, mất 
lòng tin vào đất nước, sống không có mục 
đích. Nhân vật Ron (Sinh ngày 4-7), Steve 
(Trời và đất), Jeremy (Cuộc chiến trong gia 
đình) sau khi trở về nhà, về với cuộc sống 
đời thường đều có nỗi ám ảnh bởi những 
cảnh giết chóc - một cơn ác mộng khủng 
khiếp luôn đi theo họ từng ngày. Có người 
tự chữa trị cho căn bệnh tâm lí của mình 
bằng cách tìm một mục đích sống, một 
hành động nào đó để có thể dũng cảm đối 
mặt với quá khứ, thừa nhận quá khứ và dần 
quên được quá khứ (nhân vật Michael, Ron 
và Jeremy), nhưng cũng có người tự giải 
thoát bằng con đường tự sát (nhân vật 
Steve), một cái chết bi thảm của một tâm 
hồn tội lỗi không thể thoát khỏi cơn ác 
mộng của mình. Đúng như nhận xét của 
các nhà nghiên cứu, những người lính trở 
về từ chiến tranh Việt Nam đã phản ánh hi 
vọng của một nền văn hóa Mĩ với sự sợ hãi 
TRẦN THỊ PHƯƠNG LÝ 
41 
sâu lắng, và sự ghi nhận chắc chắn, xác 
thực về đời sống nước Mĩ hiện đại. Họ là 
những gương mặt, những hồi tưởng, kỉ 
niệm trong nghệ thuật và lịch sử về một 
dân tộc tự nhận thức về mình. Và cho đến 
tận bây giờ, đề tài này vẫn đang được các 
nhà văn Mĩ tiếp tục khai thác. 
3. Kết luận 
Kể từ đại thắng mùa xuân 30/04/1975 
của Việt Nam khép lại cuộc chiến tranh tàn 
khốc, phi nghĩa của quân đội Mĩ tại chiến 
trường này, người Mĩ đã thu về những bài 
học đắt giá, cảnh tỉnh “người Mĩ phải sống 
như thế nào và đừng để xảy ra một cuộc 
chiến tranh nào giống như ở Việt Nam 
nữa”. Văn học đã làm tròn bổn phận của 
mình là tấm gương phản ánh trung thực 
hiện thực cuộc sống và đời sống tâm hồn 
con người. Những mất mát, đau đớn, tổn 
thương, những bi kịch của con người trong 
và sau chiến tranh được phản chiếu trong 
bộ phận văn học về chiến tranh của Việt 
Nam, Mĩ và còn nhiều nước khác nữa trên 
thế giới nhắc chúng ta luôn ghi nhớ về sự 
giữ gìn một cuộc sống hòa bình- đó mới 
chính là huyền thoại lớn nhất và mãi mãi 
mà con người hướng đến. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
A. Tài liệu tham khảo tiếng Việt: 
1. Lê Đình Cúc (1991), “Cựu chiến binh Mĩ trong 
chiến tranh Việt và một số tiểu thuyết Mĩ gần 
đây”, Tạp chí Văn học, số 5-1991. 
2. Nguyễn Hồng Dũng (2006), “Chiến tranh Việt 
Nam trong văn học Mĩ – từ sự thật đến tác phẩm”, 
Tạp chí Sông Hương, số 205 - 03 – 2006. 
3. Báo Thanh niên, phát hành ngày 16.11.1997, 
Danh Đức dịch từ Bộ NAM. 
4. Tạp chí Văn nghệ quân đội, số Tháng 12.1990 
& số Tháng 5.1991. 
5. Viện thông tin KHXH (1991), “Việt và 
Apganixtan: Cuộc sống và văn học”, Cái mới 
trong khoa học xã hội, số 17.1991. 
B. Tài liệu tham khảo tiếng Anh: 
6. Beidler, Philip D. (1982), American Literature 
and the Experience of Vietnam, Athens: 
University of Georgia Press. 
7. Hellmann, John (1986), American Myth and 
the Legacy of Vietnam, New York: Columbia 
University Press. 
8. Herzog, Tobey C. (1992), Vietnam War 
Stories: Innocence Lost, London: Routledge. 
9. Taylor, Mark (2003), The Vietnam War in 
History, Literature, and Film, Tuscaloosa: 
University of Alabama Press. 
Ngày nhận bài: 30/12/2014 Biên tập xong: 15/9/2015 Duyệt đăng: 20/9/2015 

File đính kèm:

  • pdfchien_tranh_viet_nam_trong_van_hoc_mi.pdf