Phong cách nghiên cứu, phê bình văn học của Kiều Thanh Quế

TÓM TẮT

Kiều Thanh Quế là nhà nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX.

Ông được xem là một cây bút nghiên cứu với phong cách hiếm có ở Nam Bộ. Trong khoảng 10 năm

cầm bút, Kiều Thanh Quế đã để lại di sản tác phẩm khá đồ sộ. Bài viết này tìm hiểu các phương

diện từ phương pháp nghiên cứu, phê bình đến cách kết cấu, văn phong, ngôn ngữ trong các bài

nghiên cứu, phê bình của Kiều Thanh Quế, qua đó chúng ta thấy được sự linh hoạt trong việc vận

dụng đa dạng phương pháp nghiên cứu, phê bình; kết cấu bài nghiên cứu logic, tuân thủ chặt chẽ

các nguyên tắc khoa học; lối viết thẳng thắn, thể hiện cái nhìn bộc trực đối với đối tượng nghiên

cứu và vốn ngôn ngữ Nam Bộ khá đặc trưng.

pdf12 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 191 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Phong cách nghiên cứu, phê bình văn học của Kiều Thanh Quế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
hôi không nghe lời” (Nguyen, & Phan, 2009, p.34). Người xưa ở đây là chỉ 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 17, Số 4 (2020): 743-754 
752 
những nhà tư tưởng lí luận văn học Trung Quốc, cụ thể ở đây là của Lưu Hiệp trong cuốn 
Văn tâm điêu long. Ngoài ra, nhiều khi trong một đoạn mà tác giả sử dụng xen kẽ những từ 
Hán Việt và những từ dịch ra từ tiếng Pháp, như: “Trong phương hoạch hành văn (procédé 
de style), trọng yếu nhất là hình tượng (image) và tả ảnh từ (métaphore). Tả ảnh từ dạy 
cách chuyển tánh chất một thứ dễ ý hội sang một thứ khó ý hội. Cách chuyển hóa này biến 
thành lối so sánh, tỉ giảo (comparasion)” (Nguyen, & Phan, 2009, p.29). Trong bài “Phiên 
dịch cũng là cách đào luyện văn chương” đăng trên Tri Tân số 49 (6-1942), có đoạn: 
Biết bao danh sĩ Tàu, Nhật sở dĩ quảng kiến đa văn được là nhờ học ở sách dịch. Lương Khải 
Siêu, một danh sĩ Tàu hồi Trung Hoa dân quốc thành lập chẳng hạn, nhờ học ở sách dịch mà 
uyên bác được tất cả uyên nguyên học phái: triết học, khoa học, sử học từ thượng cổ trải 
qua trung cổ đến tân kim thời đại, từ Hy Lạp trải qua La Mã đến Anh, Pháp, Đức, Mĩ: thông 
hiểu được thuyết thực nghiệm của Bacon, thuyết tồn nghi của Descartes, thuyết xã ước của 
Rousseau, thuyết chánh trị, tạm quyền của Montesquieu, thuyết nguyên phú của Smith, 
thuyết quốc gia của Bluntchi, thuyết thiên diễn của Darwin, thuyết triết học điều hòa của 
Kant, thuyết lợi lạc của Bentham (Nguyen, & Phan, 2009, p.60). 
Lối sử dụng ngôn ngữ này có trong các bài nghiên cứu và phê bình của Kiều Thanh 
Quế khá nhiều. 
Viết nguyên âm những từ tiếng Pháp mà không dịch nghĩa. Ví dụ đoạn Kiều 
Thanh Quế viết về chủ nghĩa hiện thực: “Ở nước ta trước thời kì 1935-1936 hay ở vào 
nước Pháp trước năm 1850, tức sanh nhằm một thời đại nó phân cách hậu diệp chánh thể 
dân chủ buộc joa (démocratie bourgeoise) với sơ diệp chánh thể dân chủ xã hội 
(démocratie sociale)” (Nguyen, & Phan, 2009, p.285). Điều này có thể tạo nên sự khó hiểu 
cho người đọc bây giờ, nhưng giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX, đó có lẽ là một hiện tượng phổ 
biến ở Nam Bộ. Bởi ngay cả trong ca dao Nam Bộ cũng có hiện tượng viết nguyên âm 
tiếng Pháp mà không dịch này. Như câu: “Bước vô Trường Án, vỗ ván cái rầm/ Bủa xua 
ông Tham Biện, bạc tiền ông để đâu” (Cao dao Nam Bộ). Bủa xua là tiếng bồi đọc trại từ 
chữ bonjour của Pháp. So với các cây bút miền Bắc vào giai đoạn này, sự ảnh hưởng Hán 
học đã lùi dần, nhường chỗ cho văn hóa phương Tây, thì ở Nam Bộ, sự ảnh hưởng của nền 
Hán học vẫn còn tồn tại. Ngoài ra còn do thói quen sử dụng ngôn ngữ của người Nam Bộ. 
Nguyễn Văn Trung khi khảo sát văn học trên tờ Lục tỉnh Tân văn đầu thế kỉ đã nhận thấy 
rằng “riêng về từ, lời nói thường dùng từ nôm na bình dân, nhưng cũng có thể dùng nhiều 
từ Hán Việt, kể cả câu xuôi của chữ Nho mà người trí thức thời đó khi nói vẫn quen dùng 
nên khi viết cũng cứ để nguyên như vậy. Đến khi tiếp xúc với văn hóa Pháp, đôi khi nói 
cũng pha tiếng Pháp, thì khi viết cũng viết như khi nói, không dịch ra” (Nguyen, 2015, 
p.450). Nam Bộ là nơi có sự ảnh hưởng, giao lưu văn hóa khá đa dạng, lại thêm việc sử 
dụng tiếng Pháp từ rất sớm nên nhiều người đã quen với việc dung hợp nhiều thứ ngôn ngữ 
trong đời sống để thích nghi. Do vậy, trong ý thức, họ không cần dịch mà phát nguyên âm 
và mọi người vẫn có thể hiểu. Hơn nữa, văn học Nam Bộ còn có một đặc điểm là “văn viết 
học theo văn nói” (trong khi miền Bắc thì ngược lại) nên dần dần những yếu tố thuộc về 
phát âm cũng đi vào văn viết một cách tự nhiên. 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Trần Thị Mỹ Hiền 
753 
Ít chọn lọc ngôn ngữ viết thuần túy mà đã giữ lại cách diễn đạt tự nhiên, dân dã, 
đậm đặc ngôn ngữ của người bình dân Nam Bộ. Đặc điểm này hiện diện trong hầu hết 
các tác phẩm của Kiều Thanh Quế, kể cả nghiên cứu, dịch thuật và phê bình, nên phần nào 
cũng làm ảnh hưởng đến tính chuyên nghiệp trong văn phong nghiên cứu của ông. Ta có 
thể bắt gặp các từ như: sanh, nhứt, lộn xộn, lôi thôi, dài ngoằng, cỏn con, vẽ vời, bưng, na 
ná, lèo tèo, nói qua loa Theo Nguyễn Văn Trung, “Cuộc sống của miền Nam đưa người 
lưu dân đến chỗ dễ tước bỏ những cái trang trọng, đài các, chải chuốt, tế nhị, thâm trầm khi 
thực ra chúng chỉ còn là hình thức khuôn sáo quanh co ngăn chặn những thông cảm chân 
thành trực tiếp”. “Nói, viết văn cũng vậy. Trở về với cái chân thực, chân tình, thông cảm 
trực tiếp là trở về với ngôn ngữ nói hằng ngày, và nếu viết văn thì đó là thứ văn nói, nghĩa 
là thứ văn viết ra để đọc, để trình diễn cho mọi người xem, nghe bằng con mắt, lỗ tai, 
không phải thứ văn để đọc một mình” (Nguyen, 2015, p.482). Cũng theo học giả này, sự 
trở về với lời nói hàng ngày trong văn chương không phải là một trường hợp riêng của 
miền Nam. Đó là một biểu lộ văn hóa ở những miền đất mới. Xét về một phương diện nào 
đó, nó biểu lộ “sự sống động, phong phú về ngôn ngữ của con người ở vùng đất mới, như 
một trở lại với cái khởi đầu, chưa có sự phân biệt, quy định chặt chẽ. Hiện tượng trên 
không phải là đặc thù, mà đúng ra chỉ bày tỏ một quy luật về văn hóa trong quan hệ của 
con người vùng đất cũ và vùng đất mới”, “biểu hiện một xã hội sống động đang chuyển 
mình, đổi mới” (Nguyen, 2015, p.450, 452). 
Như vậy có thể nói, ngôn ngữ nghiên cứu, phê bình của Kiều Thanh Quế thể hiện 
một đặc trưng rất Nam Bộ giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX. Do tiếp thu cả hai nền phê bình 
truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây, nên trong ngôn ngữ phê bình, ta 
thấy Kiều Thanh Quế thường sử dụng trộn lẫn ba ngôn ngữ: vừa dùng từ Hán Việt, vừa sử 
dụng những thuật ngữ về văn học hoặc chính trị, tư tưởng bằng tiếng Pháp, vừa kết hợp lớp 
ngôn ngữ bình dân Nam Bộ. Tùy vào cách nhìn nhận của mỗi người, nhưng theo chúng tôi, 
điều này ít nhiều đã cho thấy được bản lĩnh, sự tự tin của một nhà nghiên cứu. Bởi một trí 
thức Tây học như Kiều Thanh Quế vốn đã tiếp thu một lối hành văn khúc chiết, khoa học 
từ phương Tây thì không lẽ nào không thể khắc phục được những hạn chế về cách dùng từ 
mang tính chất địa phương. Hơn nữa các tác phẩm của Kiều Thanh Quế không chỉ xuất bản 
trong phạm vi địa phương Nam Bộ mà còn được ông chủ động đưa “tiếng nói địa phương” 
ra tận miền Bắc thông qua việc đăng bài trên Tạp chí Tri Tân. Vì thế, có thể xem đây là một 
hành động có chủ đích trong việc tạo nên một chất giọng riêng hiếm có thời bấy giờ. 
3. Kết luận 
Có thể thấy phong cách nghiên cứu, phê bình của Kiều Thanh Quế gắn liền với lối tư 
duy thiên về lí trí, logic, xem trọng tính khoa học hơn là thiên về duy cảm; do đó, các tác 
phẩm của Kiều Thanh Quế dù là nghiên cứu hay phê bình cũng ít nhiều có giá trị về mặt lí 
luận và mang tính khoa học chứ không đơn thuần chỉ là tiếp nhận hoặc cảm thụ nghệ thuật. 
Về mặt kết cấu, các bài viết và công trình nghiên cứu của ông đôi chỗ có thể chưa được 
chặt chẽ nhưng cái chính là ông đã đóng góp cho độc giả và các nhà nghiên cứu sau này 
nhiều dữ liệu về các hoạt động trong đời sống văn học đương thời. Ngoài ra, do kiến văn 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 17, Số 4 (2020): 743-754 
754 
rộng rãi, với lối so sánh và liên hệ linh hoạt, các công trình và bài viết của ông đã dẫn dắt, 
gợi mở cho người đọc nhiều vấn đề văn học có liên quan không chỉ trong nước mà còn trên 
thế giới. Quan trọng là ông không làm điều này chỉ để tăng sự sang trọng cho bài viết mà là 
muốn cung cấp thêm tri thức cho các độc giả trong nước thời bấy giờ. Cùng với Lê Thọ 
Xuân, Kiều Thanh Quế là một trong những nhà nghiên cứu tiên phong trong vấn đề mở 
rộng giao lưu học thuật giữa miền Nam và miền Bắc thông qua việc nhiều bài nghiên cứu, 
trao đổi, phê bình của ông được đăng trên Tạp chí Tri Tân. Riêng điểm này đã cho thấy 
được bản lĩnh và sự tự tin của ông trong môi trường giao lưu học thuật bấy giờ. Và mặc dù 
công bố các bài viết của mình ở môi trường học thuật miền Bắc nhưng Kiều Thanh Quế 
không vì thế mà làm giảm đi văn phong mang tính cách Nam Bộ. Khác với lối viết của 
Đông Hồ hay Trúc Hà rất gần với văn phong miền Bắc, trước sau Kiều Thanh Quế vẫn giữ 
được chất giọng Nam Bộ rất riêng của mình. Tất cả những điều này có lẽ không nằm ngoài 
dự định muốn tạo nên một diễn ngôn mới trong nghiên cứu văn học dân tộc. 
 Tuyên bố về quyền lợi: Tác giả xác nhận hoàn toàn không có xung đột về quyền lợi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Hoai Anh (2001). Literary portrait [Chan dung van hoc]. Hanoi: Writers' Association Publishing 
House. 
Nguyen, H. S., & Phan, M. H. (compilation) (2009). Evolution of Vietnamese literature [Cuoc tien 
hoa van hoc Viet Nam]. Hochiminh City: Thanh nien Publishing House. 
Nguyen, V. T. (1968). Literary profile (Vol.3): Literary research and criticism [Luoc khao van 
hoc: nghien cuu va phe binh van hoc]. Saigon: Nam Son Press. 
Nguyen, V. T. (2015). Research profile of the six provinces of Southern Vietnam [Ho so luc chau 
hoc]. Hanoi: Tre Publishing House. 
STYLE OF LITERATURE RESEARCH AND CRITICISM BY KIEU THANH QUE 
Tran Thi My Hien 
Thu Dau Mot University, Vietnam 
Corresponding author: Tran Thi My Hien – Email: nguyenhau_1134@yahoo.com 
Received: December 11, 2019; Revised: February 17, 2020; Accepted: April 27, 2020 
ABSTRACT 
Kieu Thanh Que is a Vietnamese researcher and literary critic in the first half of the 
twentieth century. Within 10 years of professional activities, he has a large number of works. He is 
considered as an outstanding researcher in the South. This article will explore not only his 
research methods and literary criticism but also his textual structure, style, and language in his 
works. The results show that he is flexible in applying various research methods, his structure of 
the research is logical and coherent, and his style is frank and direct to the research objectives. In 
addition, he also used the typical research language of the South Vietnamese in the first half of the 
twentieth century. 
Keywords: Kieu Thanh Que; literary research; literary criticism; style 

File đính kèm:

  • pdfphong_cach_nghien_cuu_phe_binh_van_hoc_cua_kieu_thanh_que.pdf