Sức sống của tục ngữ trong tác phẩm "Mảnh đất lắm người nhiều ma" của nhà văn Nguyễn Khắc Trường
TÓM TẮT
Việc sử dụng những câu tục ngữ đã giúp nhà văn Nguyễn Khắc Trường làm sống dậy hình ảnh
thôn quê Việt nam. Cách nói của dân gian giờ lại trở về cuộc sống hiện đại trong một hình thức
mới mẻ hơn - đó là lời của nhân vật trong tiểu thuyết.
Nguyễn Khắc Trường sử dụng tục ngữ là tiếp thu luôn cả triết lý dân gian, lối cảm, lối nghĩ, cách
nói phương pháp tư duy của dân gian. Nói chung văn xuôi Việt Nam hiện đại đã kế thừa nghệ
thuật sáng tác dân gian một cách tinh tế, điêu luyện. Nói một cách ngược lại, văn học dân gian mà
cụ thể là tục ngữ đã hiện diện trong cuộc sống hiện đại hôm nay một cách nhuần nhị. Việc sử dụng
một thể loại văn học dân gian truyền thống trong tác phẩm văn học hiện đại đã làm tăng tính hình
tượng của văn học làm nổi bật phong cách văn xuôi của các nhà văn. Sức sống của tục ngữ truyền
thống đã có một hình thức lưu truyền phong phú. Bên cạnh việc lưu truyền độc lập qua chuỗi lời
nói, lưu truyền trên báo chí thì tục ngữ còn hiện diện sinh động trên những trang văn.
ng xóm Giếng Chùa, thiếu thốn, khó khăn của cuộc sống khiến hắn đã trở thành con người trọng miếng ăn hơn tình nghĩa. Ý thức về sự sống trong hắn mạnh mẽ biết bao. Và cùng một tầng lớp, một hoàn cảnh như Quềnh, Thó cũng vậy... bất chấp tất cả mọi giá trị đạo đức, hắn đã cố gắng để đuổi đi cái đói khỏi đeo bám mình. Qua câu tục ngữ, người đọc có thể cảm thông cho hai con người ấy. Họ cũng có bản chất tốt đẹp nhưng do dòng đời xô đẩy, con tạo xoay vần đã đẩy họ đến bước đường cùng và thế là "túng cũng phải tính" như ý nghĩ của họ. Hoàn cảnh của nhân vật được hé mở nhờ những câu tục ngữ : "Chị Bé người nông dân khốn khổ cũng lâm vào hoàn cảnh như bao người nông dân khác. Chị đã phải đi lang thang, để lẩn tránh, chạy trốn khỏi cái đói "tháng ba, ngày tám"; "... Ai gồng gánh gì thế này? - Thủ lùi lại hỏi như gắt, thì một giọng phụ nữ lại rất xởi lởi: - Ối giời chú Thủ đấy à? Con mẹ Đủ đây! Cha mẹ đặt tên thế, nhưng quanh năm vắt mũi đút miệng. Vay nồi thóc cứu đói của bà Son tháng trước, giờ phải giả ngay đây...". Nhà văn vận dụng tục ngữ để nói về những vấn đề nhân sinh, nói về mối quan hệ giữa người và người trong một gia đình, trong một cộng đồng làng xã một cách sâu sắc và mang ý nghĩa nhân văn cao cả. Những câu tục ngữ được sử dụng trong tác phẩm rất khéo léo, phù hợp với những tính cách đại diện cho từng nhân vật cụ thể, tiêu biểu cho một lớp người trong xã hội. Nhờ tục ngữ, nhà văn đã nêu lên quan điểm nhân vật. Theo truyền thống Việt Nam mối quan hệ huyết thống là một trong những giá trị nhân văn tiêu biểu nhất. Những giá trị ấy luôn làm giàu có thêm những truyền thống đạo đức tốt đẹp của nhân dân. Ở nơi đó, con cái luôn vị nể cha mẹ, tôn trọng bậc tiền bối, không bao giờ có những hành vi vô đạo đức đối với cha mẹ. Với cha mẹ có những đứa con như thế là một niềm hạnh phúc lớn lao đáng tự hào: "... Phía sau ông bố nén cười, đã bảo mà! Cứ tưởng cậu cả khù khờ, thế mà khá! "Con hơn cha là nhà có phúc...". Nguyễn Khắc Trường đã dùng nguyên nghĩa của câu tục ngữ mà miêu tả Ngô Thị Thanh Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 3 - 8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 niềm hạnh phúc, lòng tự hào của bố Quềnh. Không tự hào làm sao cho được khi con mình dám làm những cái mà ông bố không thể làm. Đấy là một sự bù đắp, cũng là một hệ quả bởi giỏ nhà ai quai nhà nấy. Đó là một lẽ hiển nhiên bởi con nào chẳng mang ít nhiều dáng dấp và phong cách sống của cha mẹ. Cũng vì thế mà trong quan hệ xã hội người Việt Nam bao giờ cũng đặt vấn đề máu mủ, ruột thịt lên hàng đầu. Việc nào tốt, miếng nào ngon bao giờ cũng giành cho "người gia đình" trước hết, sau đó mới hậu xét đến người ngoài, dẫu sao cũng một giọt máu đào, hơn ao nước lã: "... Tùng lại được vào Đảng uỷ. Dù hai cậu cháu còn trục trặc, nhưng chẳng bao giờ anh em họ lại bỏ nhau. Một giọt máu đào hơn ao nước lã. Bên Trịnh Bá định lấy âm trị dương cho êm ả sạch sẽ, nhưng không ngờ gậy ông lại đập lưng ông rồi...". Bằng một hình ảnh so sánh độc đáo - "một giọt máu đào" (số ít) nhưng vẫn hơn cả "ao nước lã" (số nhiều). Coi gia đình là tất cả, đồng thời đòi hỏi mỗi cá nhân trong đại gia đình ấy phải làm hết sức mình cống hiến cho hạnh phúc chung. Trong gia đình, người phụ nữ cũng là người đầu tiên được nói tới. Và hình ảnh người phụ nữ tần tảo, long đong vất vả vì gia đình, vì con đã được tục ngữ cụ thể hoá bằng hình tượng cá chuối đắm đuối vì con ; "... Ông Phúc hỏi rụt rè: - Bà còn định nói với tôi chuyện gì nữa? Bà Son như sực tỉnh. Bà ngồi thẳng lên, lấy ống tay che mặt, nói rì rầm: - Thôi thì dù sao tôi cũng chẳng phải lo cái phận tôi, lo cho mấy đứa con tôi. Cá chuối đắm đuối vì con. Tôi cắn rơm, cắn cỏ xin ông một lần này cũng là vì mấy đứa con tôi! Chúng nó chẳng làm gì nên tội. Ông hãy bỏ qua cái vụ này. Ông rút đơn kiện về! Rồi tôi sẽ nói để anh em họ Trịnh có lời xin ông. Thế là ông được ra ơn cho cả một chi họ, còn mẹ con tôi cũng được ông làm phúc...". Người phụ nữ ấy là bà Son - người phụ nữ mà tại số kiếp hay tại nhà văn cố tình chứng minh cho chân lý xưa nay hồng nhan – đa truân. Người đàn bà ấy tài sắc, đảm đang mà chẳng được hưởng lấy một giây phút thanh thản trong khi những người phụ nữ khác họ luôn được coi trọng , vị nể : nhất vợ nhì giời và ngay cả sau này khi về già họ vẫn có vai trò riêng biệt độc lập mà không thể phủ nhận con nuôi cha không bằng bà nuôi ông, còn bà Son thì không: chẳng danh, chẳng phận. Với việc sử dụng tục ngữ trong lời nói của các nhân vật, nhà văn Nguyễn Khắc Trường đã làm tăng lên những hiệu quả của việc miêu tả tích cách, chân dung nhân vật, khiến cho nhân vật sinh động, thật hơn bao giờ hết. Đồng thời tác giả cũng đã thể hiện được chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và cách ứng xử xã hội của nhân dân lao động quanh những câu tục ngữ. Sử dụng tục ngữ trong lời nói của nhân vật, nhà văn đã nâng ý nghĩa của những vấn đề được đề cập mang một tầm khái quát cao hơn. Trong "Khối tự sự lớn”, tác giả đã sử dụng những câu tục ngữ để hướng đến một giá trị văn hóa, ở đó con người ứng xử với nhau theo cách của những nông dân, làng xã, vừa có cái cao cả, vừa có cái thấp hèn rất cần phải thay đổi. Với một khuôn khổ rộng, một dung lượng ngôn ngữ lớn, chi tiết và nhân vật đa dạng tính cách, cùng sự bao la vô tận của không gian và thời gian, Nguyễn Khắc Trường đã khai thác được bản chất nhân vật một cách tỉ mỉ và sâu sắc thông qua ngôn ngữ nhân vật trong những xung đột mang tính xã hội. Có thể nói nhà văn Nguyễn Khắc Trường đã làm sống dậy hình ảnh thôn quê Việt nam qua những câu tục ngữ. Những phát ngôn của người bình dân, giờ lại trở về vẹn nguyên với những người sinh ra nó, nhưng trong một hình thức mới mẻ hơn - Đó là lời của nhân vật trong tiểu thuyết. Điều đó cũng đủ để thấy tục ngữ truyền thống đã được lưu truyền trong xã hội hiện đại một cách khá phổ biến và bằng một hình thức độc đáo thông qua ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết. Sử dụng tục ngữ trong tác phẩm văn học vốn đã có truyền thống trong văn học Trung đại từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương... Văn xuôi hiện đại vẫn tiếp tục truyền thống Ngô Thị Thanh Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 3 - 8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 tốt đẹp đó. Có thể nói đây là thế mạnh của các nhà văn trong việc tiếp thu và sử dụng sáng tác dân gian. Bởi tục ngữ là "những phán đoán, những kết luận của nhân dân rút từ nhân tình thế thái có tính triết lý và giáo huấn. Nó khái quát cuộc sống dưới dạng ngắn gọn và sinh động. Đó là kiểu tư duy phổ biến và truyền thống, giàu tính văn nghệ tự nhiên của nhân dân. Vì vậy nó hay được lồng vào truyện kể như là một lối bình luận, đánh giá giải thích các sự kiện, các tính cách. Có khi nó trở thành ngôn ngữ đối thoại rất là tự nhiên của nhân vật” (2) Khảo sát lời văn trong tác phẩm của tác giả Nguyễn Khắc Trường, chúng ta thấy được phần nào mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa văn học - văn học dân gian, trong đó có tục ngữ - một thể loại văn học dân gian truyền thống đã trở thành ngọn nguồn làm phong phú thêm nội dung và hình thức ngôn ngữ của tác phẩm văn học. Nguyễn Khắc Trường sử dụng tục ngữ dân gian là tiếp thu luôn cả triết lý dân gian, lối cảm, lối nghĩ, cách nói phương pháp tư duy của dân gian. Nói chung văn xuôi Việt nam hiện đại đã tiếp thu nghệ thuật sáng tác dân gian một cách tinh tế, điêu luyện. Nói một cách ngược lại, văn học dân gian mà cụ thể là tục ngữ đã hiện diện trong cuộc sống hiện đại hôm nay một cách nhuần nhị, với những cải biến phong phú da dạng. Việc sử dụng một thể loại văn học dân gian truyền thống trong tác phẩm văn học hiện đại đã làm tăng tính hình tượng của văn học làm nổi bật phong cách văn xuôi của các nhà văn. Những câu tục ngữ ngắn gọn và hàm súc nằm đan xen vào mạch văn chi phối cách viết của tác giả làm cho toàn bộ tác phẩm thành một bản hoà âm sinh động mang đậm sắc màu truyền thống, gần gũi với cội nguồn, người đọc dễ dàng tiếp nhận. Sức sống của tục ngữ truyền thống xuất phát từ chỗ truyền miệng đã có một đời sống mới sinh động trên những trang văn. "Tục ngữ là lời nói có cánh, tách ra khỏi lời nói thông thường, bay lên và bay đi thành lời nói nghệ thuật, thành tác phẩm văn chương, lưu hành và lưu truyền một cách tương đối độc lập trong cuộc đời, trong xã hội " (3). TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Nguyễn Khắc Trường (1999), Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh [2]. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Hà Nội, Nxb KHXH, năm 1976 in lần thứ 2 [3]. Trần Thanh Đạm (1989), "Tục ngữ dân gian và vấn đề nguồn gốc văn chương", Tạp chí Văn hóa Dân gian Hà Nội, Tr.3-10. SUMMARY VITALITY OF PROVERBS IN "MANH DAT LAM NGUOI NHIEU MA" BY NGUYEN KHAC TRUONG Ngo Thi Thanh Quy College of Education - TNU The use of proverbs helps Nguyen Khac Truong revitalize Vietnam's rural images. Ancient expressions are given in the modern life in a new form through characters’ sayings in the novels. Nguyen Khac Truong uses proverbs by absorbing folk philosophy, way of feeling, thinking and expressing. In general, modern Vietnamese literature has inherited folk art creation in a subtle virtuosity. Conversely, folklore proverbs in particular have been cleverly presented in modern life today. The use of a genre of folklore traditions in modern literature has increased the image of literature to enrich the prose style of the writer. Vitality of traditional proverbs have been kept and populated in a rich form. Besides independently handed over the chain of words, handed down in the press, the proverbs are lively present at the literature. Key words: proverbs, novel “Manh dat lam nguoi nhieu ma”, iconology, Nguyen Khac Truong Tel: 0989 793169
File đính kèm:
- suc_song_cua_tuc_ngu_trong_tac_pham_manh_dat_lam_nguoi_nhieu.pdf