Quan niệm văn chương của kiểu tác giả nhà chí sĩ trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX

TÓM TẮT

Quan niệm văn học là cơ sở của tư duy nghệ thuật, chi phối việc sáng tác văn chương

của tác giả. Mỗi thời đại, mỗi loại hình tác giả có quan niệm văn học khác nhau. Quan

niệm của kiểu tác giả nhà chí sĩ trong văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỉ vừa kế thừa

quan niệm văn học truyền thống vừa có những cách tân, đổi mới. Chính vì thế, kiểu tác giả

nhà chí sĩ đã góp phần quan trọng tạo nên diện mạo mới với đặc sắc riêng cho lịch sử văn

học dân tộc. Ở bài viết này, chúng tôi trình bày một số quan niệm văn học của kiểu tác giả

nhà chí sĩ trong 30 năm đầu của thế kỉ XX.

pdf6 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 331 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Quan niệm văn chương của kiểu tác giả nhà chí sĩ trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
tộc, 
sự tồn vong của quốc gia, với cuộc sống 
của hàng triệu người dân mất nước, quan 
niệm về chức năng của văn học đã có 
những thay đổi tiến bộ. Văn chương phải 
là vũ khí tinh thần sắc bén để giác ngộ, cổ 
vũ mọi tầng lớp nhân dân tập hợp dưới 
ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải phóng 
nhân dân khỏi áp bức nô lệ, vươn tới tự 
do, hạnh phúc. 
2. Coi văn chương là “trống chiêng 
thức tỉnh”, là phương tiện hữu hiệu nhằm 
huy động sức mạnh cứu nước, giải phóng 
dân tộc. Trước đòi hỏi của sự nghiệp cách 
mạng, văn chương phải thực hiện sứ 
mệnh chính trị, nó là “gươm”, là “súng”, 
là vũ khí nhắm vào kẻ thù và là “chiêng”, là 
“trống” thúc giục, hiệu triệu đồng bào. Từ 
yêu cầu của lịch sử, người cầm bút đã đặt 
nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ cứu nước của 
văn học lên hàng đầu, sáng tác phải gắn với 
trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội 
của người cầm bút. Trong Văn tế Phan Chu 
Trinh, Phan Bội Châu viết: 
Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, nhà cường 
quyền trông gió cũng gai ghê 
Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng, cửa 
dân chủ khêu đèn thêm sáng chói. 
Sáng tác trên cơ sở quan niệm như thế, 
nên văn chương thời kì này có nhiều tác 
phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, 
có tác dụng sâu sắc trong việc cổ vũ nhân 
dân. Những “câu thơ dậy sóng” của Phan 
Bội Châu đã trở thành trống chiêng thức tỉnh 
cho thế hệ trẻ đương thời. Bài ca chúc tết 
thanh niên với giọng thơ vừa đau xót vừa 
hào sảng, vừa giục giã, vừa tha thiết, Sào 
Nam đã đánh thức tâm hồn thế hệ trẻ, lay 
tỉnh lớp hậu sinh từ bỏ lối sống tầm thường, 
bắt kịp thời đại mới, cùng nhau đoàn kết 
giành lại chủ quyền dân tộc. Tinh thần hăm 
hở, sục sôi của người chí sĩ đã thôi thúc, giục 
giã, cuốn họ vào không khí “tân vận hội” 
nhận thức được cơ hội mới để “xốc vác cựu 
giang sơn”, tham gia vào công cuộc cách 
mạng của cả dân tộc. 
Dậy! dậy! dậy! 
Bên án một tiếng gà vừa gáy, 
Chim trên cây vừa ngỏ ý chào mừng. 
 . 
Thưa các cô, các chị, lại các anh; 
Đời đã mới, người càng nên đổi mới. 
Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội, 
Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn. 
Thức tỉnh để người dân nhận rõ vận hội 
mới, thức tỉnh để họ nhận thấy những tai họa 
khủng khiếp của nước nhà nếu không mau 
mau cứu nước. 
 48 
Tỉnh quốc hồn ca của Phan Chu 
Trinh cũng mang âm hưởng của quan 
niệm văn học là trống chiêng thức tỉnh. 
Nội dung thức tỉnh ở Phan Chu Trinh là 
hô hào cải cách xã hội theo hướng duy 
tân lúc bấy giờ: 
Ngồi nghĩ lại thêm phiền thêm tủi, 
Hỏi những người tuổi trẻ tài cao. 
Bây giờ phải tính làm sao? 
Rủ nhau đi học mọi điều văn minh. 
Các chí sĩ thức tỉnh quốc dân bằng 
việc đánh đổ quan niệm học thuật của các 
nhà nho cổ hủ. Bởi lối học đó, lúc này, 
không những trở thành sự cản trở tinh 
thần tiến thủ của thanh niên mà còn biến 
thanh niên thành những kẻ nô lệ tối tăm 
mù mịt, ươn hèn, làm tôi tớ cho thực dân, 
đế quốc. Vì vậy thức tỉnh để xây dựng 
đời sống tinh thần mới, hướng thanh niên 
có khát vọng vươn tới chân trời rộng, 
nhằm giải phóng nước nhà: 
Non sông đã chết, sống thêm nhục 
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài 
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió 
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi. 
(Xuất dương lưu biệt – Phan Bội Châu) 
Các nhà ái quốc đã tinh anh nhận rõ 
âm mưu nô dịch, ngu dân, tàn bạo của 
thực dân, đồng thời bình tĩnh, sáng suốt 
nhận rõ vận hội mới của đất nước. Văn 
thơ của họ đã song hành thực hiện sứ 
mệnh vừa thức tỉnh đồng bào vừa khích lệ 
họ tin tưởng tham gia vào cuộc tranh đấu 
giành độc lập dân tộc, xây dựng một nền 
“ tân học văn minh” tiến kịp thời đại mới. 
3. Văn chương là vũ khí sắc bén đuổi 
thù, là công cụ vạn năng trong công cuộc 
duy tân, tự cường dân tộc. Tiếp nối quan 
niệm “đâm mấy thằng gian bút chằng tà”, 
văn học tiếp tục là vũ khí sắc bén đuổi 
thù. Văn thơ các chí sĩ đã tập trung tố cáo 
tội ác của thực dân, vạch trần bản chất, dã 
tâm bẩn thỉu của chúng (dã tâm của chúng 
được che đậy dưới những luận điệu tuyên 
truyền về khai hoá thuộc địa) đối với dân tộc 
ta, nhằm giúp nhân dân hiểu rõ âm mưu 
thâm độc của ngoại bang. Bằng việc đưa ra 
hàng loạt những chứng cứ cụ thể về chính 
sách bóc lột kinh tế như thuế khóa nặng nề, 
phu phen, tạp dịch, chính sách nô dịch về 
văn hoá dưới chiêu bài “bảo hộ”, “khai hoá” 
với mưu đồ diệt chủng, văn học của nhà chí 
sĩ yêu cầu cấp bách người dân vùng dậy bảo 
vệ giống nòi. Trong Hải ngoại huyết thư 
Phan Bội Châu đã nêu lên câu hỏi lớn, câu 
hỏi bức thiết Năm mươi triệu há ngồi chịu 
chết? Trả lời câu hỏi ấy là trả lời cho sự tồn 
vong của quốc gia: 
Năm mươi triệu há ngồi chịu chết? 
Cũng có phen kịch liệt một lần, 
Sao bằng nó lấy dần dần, 
Mỗi năm mỗi thuế, mỗi phần mỗi tăng. 
Không chỉ bóc lột về kinh tế, xô đẩy 
nhân dân vào chốn lầm than mà chúng còn 
thực hiện chính sách ngu dân để dễ bề cai trị. 
Phan Bội Châu đã vạch trần âm mưu đó: 
Trường quốc học đặt tên Pháp - Việt, 
Dạy người Nam đủ biết tiếng Tây, 
Đến như trăm thứ nghề hay, 
Binh, cơ, điện, hoá, không thầy dạy 
khôn. 
Bằng hình ảnh biểu cảm, chân thực, 
Phan Bội Châu đã vạch rõ tâm địa đen tối 
của chúng. Chúng vơ vét thuộc địa bằng 
chính sách thuế, bằng chính sách nhân công 
rẻ mạt, chà đạp đối xử tàn tệ với nhân dân: 
Nó nuôi mình như trâu như chó 
Nó coi mình như cỏ như rơm 
Trâu nuôi béo cỏ coi rờm 
Cỏ moi rễ cỏ, trâu làm thịt trâu. 
Những chính sách đó của thực dân tất 
yếu dẫn đến thảm họa diệt chủng đối với dân 
tộc: 
Pháp kia nó tính đã sành 
 49 
Cái điều diệt chủng thôi đành chẳng 
sai. 
Vạch trần âm mưu, thủ đoạn của thực 
dân, từ đó các nhà chí sĩ đã nhóm lên 
ngọn lửa căm thù, khơi dậy ở mọi người 
nhiệt tình, quyết tâm cứu nước, sẵn sàng 
nung nấu ý chí đánh đuổi quân thù, bảo 
vệ giống nòi, bảo vệ đạo lí, bảo vệ nền 
văn hiến lâu đời của ông cha ta ngàn đời 
để lại. 
4. Nỗi lòng người chí sĩ là nỗi trăn 
trở, băn khoăn khi việc lớn chưa thành và 
lòng thương cảm, an ủi, khích lệ đồng 
chí, anh em trong bước gian nguy. Khi 
đất nước mất chủ quyền, phong trào cách 
mạng bị đàn áp thì những người yêu 
nước, hoạt động cứu nước trở thành tội 
phạm đối với chính quyền thống trị. 
Trong hoàn cảnh đó, nhiều chí sĩ đã bị 
bắt bớ, cầm tù, tra tấn. Nhiều chí sĩ phải 
trốn tránh, ẩn nấp để tiếp tục hành trình 
cứu nước, nhiều người phải lưu vong, xa 
Tổ quốc để hoạt động. Họ phải chịu đựng 
muôn vàn những cực hình, cay đắng, 
thiếu thốn, khó khăn. Nhưng dù trong 
hoàn cảnh nào, lòng yêu nước nồng nàn, 
tinh thần cách mạng trung kiên và tình 
yêu thắm thiết với đồng chí, đồng bào 
vẫn không hề bị dập tắt. 
Văn chương trở thành một phương 
tiện hữu hiệu để các chí sĩ gửi gắm tâm tư 
tình cảm, chí khí của mình đồng thời để 
an ủi, cổ vũ, khích lệ tinh thần anh em, 
đồng chí đồng bào, động viên nhau giữ 
vững tinh thần bất khuất trước bạo lực 
cường quyền, nuôi dưỡng niềm tin ở ngày 
chiến thắng. Chính vì thế, văn thơ đã bày 
tỏ một cách cảm động, thiết tha, sâu sắc 
những cung bậc nỗi lòng của các chí sĩ. 
Văn thơ bày tỏ nỗi lòng thường được thể 
hiện qua những tác phẩm thuộc các thể 
loại trữ tình với các thi đề: Cảm hứng, tức 
cảnh, khóc bạn, thư gửi bạn, tiễn, điếu... 
Nỗi lòng người chí sĩ còn là nỗi niềm tha 
thiết yêu quê hương, niềm tin tưởng son sắt 
vào tương lai tươi sáng của nước nhà. Văn 
thơ bày tỏ nỗi lòng đã thể hiện một cách 
chân thực, cảm động những cung bậc tâm tư 
người chí sĩ yêu nước, thiết tha với sự nghiệp 
cứu nước cứu dân. Có khi đó là tiếng nói 
hăm hở lạc quan, tràn đầy niềm tin và hi 
vọng, có khi là tiếng nói buồn nhớ quê 
hương gia đình, có khi là tiếng nói căm giận 
sôi trào trước những tội ác của kẻ thù, có khi 
đó là nỗi lo lắng, băn khoăn, trăn trở vì sự 
nghiệp chưa thành mà con đường phía trước 
còn mờ mịt, chông gai. Bao nhiêu hoài bão 
chủ quan và bao nhiêu biến cố khách quan 
đều trở thành bấy nhiêu đề tài suy nghĩ, cảm 
khái cho người chí sĩ cách mạng. 
Tiếng nói muôn điệu bày tỏ nỗi lòng 
trong thơ văn nhà chí sĩ đã đem đến cho 
người đọc niềm đồng cảm, thương yêu và 
kính phục trước những nỗi niềm trăn trở về 
trách nhiệm, sứ mệnh của các nhà chí sĩ đối 
với vận nước. Mảng thơ văn này đã góp 
phần bồi đắp lòng yêu nước, thương dân cho 
đồng bào, đồng chí, anh em. 
5. Với tư cách là một loại hình tác giả, 
nhà chí sĩ đã góp phần quan trọng tạo nên 
diện mạo mới với đặc sắc riêng cho lịch sử 
văn học dân tộc. Về cơ bản họ xuất thân từ 
nhà nho, mang đặc điểm của kiểu nhà nho 
hành đạo trong văn học trung đại nhưng 
trước yêu cầu của thời đại mới, họ dám tiên 
phong đổi mới, đổi mới một cách táo bạo 
quyết liệt, đổi mới quan niệm về đất nước, 
về con người, đổi mới quan niệm văn học. 
Việc vừa kế thừa vừa đổi mới trong sáng tác 
của loại hình tác giả nhà chí sĩ đã đem đến 
những đóng góp mang tính cách tân cho văn 
học nước nhà. Coi văn chương là công cụ 
vạn năng trong vận động cách mạng, cổ vũ 
tinh thần duy tân, tự cường, yêu nước, các 
 50 
tác giả nhà chí sĩ đã sáng tác văn chương 
bằng tất cả tấm lòng nhiệt thành, tâm 
huyết của mình. Văn chương của họ đậm 
tính trữ tình, hoà quyện chất lãng mạn 
bay bổng, tính chân thực của hiện thực và 
khẩu khí bậc trượng phu đã làm nên những 
vần thơ dậy sóng, tạo sức dư ba, lan tỏa 
trong tâm hồn người đọc. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Biện Minh Điền (1996), "Vấn đề tác giả và loại hình tác giả văn học trung đại Việt 
Nam", T¹p chÝ Nghiªn cøu v¨n häc, Sè 4, 2005. 
2. Đặng Thai Mai (1974), Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX, NXB Văn học, 
Hà Nội. 
3. Nguyễn Viết Ngoạn, "Văn học trung đại Việt Nam với vấn đề con người", Tạp chí 
Đại học Sài Gòn, (2), tr.51-60. 
4. Chương Thâu - Triều Dương - Nguyễn Đình Chú, (1972), Hợp tuyển thơ văn yêu 
nước và cách mạng, NXB Văn học, Hà Nội. 
5. Chương Thâu (2000), Phan Bội Châu về một số vấn đề Văn hoá - Xã hội - Chính trị, 
NXB Thuận Hóa, Huế 
6. Lê Trí Viễn, (2001), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB Văn nghệ thành 
phố Hồ Chí Minh. 

File đính kèm:

  • pdfquan_niem_van_chuong_cua_kieu_tac_gia_nha_chi_si_trong_van_h.pdf