Sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu từ điểm nhìn văn học sử
TÓM TẮT
Bài viết tiếp cận Nguyễn Đình Chiểu từ góc nhìn của lí thuyết tiếp nhận, trong đó sử
dụng phương pháp lịch sử - chức năng làm chủ đạo. Cứ liệu khảo sát là các công trình lịch sử
văn học Việt Nam có đề cập đến Nguyễn Đình Chiểu được xuất bản ở Việt Nam từ đầu thế kỉ
XX đến nay, từ công trình của Dương uảng Hàm 1943 đến Nguyễn Văn Hầu 2012.
eo những tiêu chí nghiêm ngặt thì công trình này chưa thể gọi là một bộ văn học sử mà chỉ là một số tư liệu về văn học sử miền Nam mà thôi. Cùng một hướng này còn có Lược khảo 45 lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến cuối thế kỉ 20 (2005) của Bùi Đức Tịnh. Một số công trình văn học sử về văn học Việt Nam cuối thế kỉ XIX hay toàn bộ tiến trình văn học Việt Nam xuất bản trong giai đoạn này của các tác giả Nguyễn Phong Nam (1998), Nguyễn Phạm Hùng (1999) đều đánh giá về văn nghiệp và cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu tương đối thống nhất và đồng thuận. Những chủ thể này đã bộc lộ thiên hướng và tài năng cá nhân với những sắc thái khác biệt. Nếu Nguyễn Phong Nam nhìn thiên về thi pháp thì Nguyễn Phạm Hùng lại nhìn từ thể loại. Chính sự đa dạng về cách tiếp cận này lại làm phong phú thêm lịch sử tiếp nhận Nguyễn Đình Chiểu nhất là từ góc nhìn lịch sử văn học. Nhà Việt Nam học người Nga N.I.Nikulin trong hai công trình Văn học Việt Nam (sơ thảo) (1970) và Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX (1976) đã đề cập đến Nguyễn Đình Chiểu như một tác giả tiêu biểu của văn học yêu nước nửa cuối thế kỉ XIX. Hai công trình này mãi đến 2007 mới được dịch và công bố rộng rãi tại Việt Nam. Đối với các nhà nghiên cứu nước ngoài như trường hợp này thì nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu là để tiếp cận vào nền văn hoá văn học Việt Nam, hiểu về sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Riêng Văn học miền Nam lục tỉnh của Nguyễn Văn Hầu cho đến 2012 in được 3 cuốn và vẫn còn tiếp tục. Nguyễn Đình Chiểu thuộc phạm vi khảo sát của tập ba Văn học Hán Nôm thời kháng Pháp và thuộc Pháp, được nghiên cứu các mục: tiểu sử, tác phẩm, văn chương, nhận xét và trích tuyển thơ văn. Bộ sách này đánh giá khá cao con người và văn chương cụ Đồ. ng cho rằng: “Nhận xét văn chương Nguyễn Đình Chiểu nếu chỉ dựa vào Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà ậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp thì quả là một thiếu sót lớn nếu không nói là đắc tội: tội nhìn ông phiến diện. Văn chương ông tuôn trào mãnh liệt qua những nhiệt hứng ùn ục trong lòng, phải nói rằng nó nằm trong những bài văn tế và trong những bài thơ luật sái lụy anh h ng của ông” [16,tr.95-96]. Nhà nghiên cứu này khẳng định bộ phận thơ văn yêu nước mà ông gọi là văn chương đối kháng “đã biểu lộ một tài năng xuất sắc với hết cả hai mặt là bố cục lẫn tu từ” [16,tr.97]. Về sắc thái địa phương trong văn chương cũng như sự yêu thích của độc giả mọi tầng lớp nhân dân dành cho cụ Đồ, nhà nghiên cứu nhận xét như sau: “Tác giả là người Nam kì, tất nhiên bản chất văn chương được xây dựng trên căn gốc đó. Từ cảnh vật, cảm tình, lời lẽ, tác giả đều mượn, nghĩ và nói trên cung cách miền Nam” [16,tr.100]. Nguyễn Văn Hầu nhận xét về tính chất địa phương đặc trưng trong văn chương cụ Đồ và đến lượt mình, cách dùng từ và giọng văn nghiên cứu của ông vẫn bị quy định bởi sắc thái này. Mức độ cập nhật tư liệu dùng làm cơ sở nghiên cứu trong bộ sách này nói chung và phần tư liệu về Nguyễn Đình Chiểu trong Tập ba nói riêng đều dừng lại ở trước 1975, nhưng những tư liệu đưa ra là chính xác và khách quan nên có sức thuyết phục. Bên cạnh đó, về quan niệm biên soạn, phương pháp trình bày, quan niệm về văn học và văn học sử là có chung cái nhìn với các nhà văn học sử miền Nam trước đây như Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ. Đó là công trình bao quát từ văn học dân gian đến hiện đại nhưng do cá nhân thực hiện và chịu ảnh hưởng của các phương pháp nghiên cứu phương Tây như chú trọng đến văn bản, sử dụng phương pháp thực chứng. Biên soạn và đánh giá về tác giả và tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu nói riêng và các tác giả khác của Nguyễn Văn Hầu trong Văn học Nam kì lục tỉnh là có nét khác biệt so với các bộ văn học sử do miền Bắc tiến hành trước đây và cả gần đây. Điểm khác là mở rộng phạm vi khảo sát- đánh giá sang các tác giả mà trước đây vẫn còn bị nghi kị và dè dặt như Tôn Thọ Tường, Phan Thanh Giản. 46 Quá trình tiếp nhận Nguyễn Đình Chiểu sau năm 1975 còn do sự thuận lợi của việc tiếp cận tư liệu về nhà thơ cũng như sự trưởng thành và không ngừng lớn mạnh của đội ngũ các nhà khoa học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, trong đó phương pháp liên ngành được áp dụng và mang lại những thành công nhất định đã tạo nên một mặt bằng mới cho các phương hướng tiếp cận di sản Nguyễn Đình Chiểu. Thành tựu từ các khoa học lân cận như khoa học lịch sử đã làm sáng tỏ một vài phương diện liên quan đến cuộc đời nhà thơ như Nguyễn Đình Chiểu ra Huế thi Hương hay thi Hội, Nguyễn Thị Chân Quỳnh đã có câu trả lời chính xác là thi Hội (xem thêm Lối xưa xe ngựa, 1995) hay những nghiên cứu về lịch sử tư tưởng của Cao Tự Thanh qua công trình Nho giáo ở Gia Định (1988, 1996, 2010) qua cứ liệu tác phẩm Lục Vân Tiên đã phát hiện ra một kiểu nhà nho thương nghiệp qua hình tượng ông Quán; hay về nhân vật lịch sử Trương Định đã được minh xác qua sách Khởi nghĩa Trương Định của hai tác giả Nguyễn Phan Quang và Lê Hữu Phước 2001 đã và sẽ làm những tư liệu khả tín cho những công trình văn học sử về văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX đang và sẽ tiến hành trong một tương lai gần. Cần nói rõ hơn là bối cảnh xã hội học thuật có nhiều thay đổi cũng đã tác động nhiều đến tầm đón nhận của người đọc giai đoạn này. Nếu như trước kia, hệ thống nhân vật phản diện trong Lục Vân Tiên mà một trong những nhân vật tiêu biểu là Võ Thể Loan được Ái Lan chiêu tuyết gặp phải phản ứng thì giờ đây, cũng trên tinh thần ấy, Bùi Văn Tiếng đã có cái nhìn mới, cảm thông sâu sắc hơn về nhân vật Bùi Kiệm nhưng lại không gặp phản ứng gì thái quá từ phía những người đọc khác về cách đọc này. Có thể sơ bộ nhận xét rằng trong lịch trình nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu thì giai đoạn sau 1975 là có nhiều thành tựu nhất từ tư liệu cho đến đội ngũ các nhà nghiên cứu và liền kề là sự phong phú của các phương pháp tiếp cận. Từ sau ngày thống nhất đất nước, việc nghiên cứu, phê bình tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu có những thay đổi lớn do những thuận lợi trong việc tiếp cận, sưu tầm tác phẩm và tập hợp tư liệu. Sau năm 1986, thành tựu của khoa học văn học được du nhập và vận dụng phổ biến đem lại những cái nhìn mới và góp thêm những tiếng nói phong phú, đa dạng về những di sản mà cụ Đồ để lại. Nhìn Nguyễn Đình Chiểu từ góc nhìn văn học sử cho thấy quá trình phát triển của bộ môn này và vị trí của nó trong tiến trình ấy, mà tiêu biểu là công trình của Nguyễn Lộc đã bước đầu nhìn Nguyễn Đình Chiểu từ góc nhìn của lịch sử tiếp nhận dù chỉ là bước đầu. Từ những thành tựu đã đạt được cho phép nghĩ rằng trong tương lai gần khi có một bộ văn học sử mới về văn học Việt Nam thì bên cạnh lịch sử tác giả, tác phẩm sẽ có lịch sử người đọc. Đồng thời, hướng nghiên cứu này đã thể hiện bản lĩnh của các chủ thể nghiên cứu, đã góp phần tạo ra một góc nhìn mới, làm phong phú thêm nội dung các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Đức Tịnh (2005), Lược khảo lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến cuối thế kỉ 20, Nxb Văn nghệ. 2. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Sài Gòn, Bộ Giáo dục - Trung tâm học liệu xuất bản. 3. Hà Như Chi (2000), Việt Nam thi văn giảng luận, Hà Nội: Nxb Văn hoá Thông tin. 47 4. Huỳnh Vân (2010), Hans Robert Jauss: Lịch sử văn học là lịch sử tiếp nhận , Nghiên cứu Văn học, Hà Nội, số 3, trang 36-58. 5. Lê Quang Tư (2009), “Một thế kỉ nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội,Viện Văn học. 6. Lê Trí Viễn và tác giả khác (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 4A, Hà Nội, Nxb Giáo dục. 7. Lê Văn Siêu (1974), Văn học sử thời kháng Pháp, Sài Gòn, Trí Đăng. 8. Nhiều tác giả (1973), Nguyễn Đình Chiểu tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật, Hà Nội, Nxb Khoa học xã hội. 9. Nhiều tác giả (1982), Kỉ yếu Hội nghị khoa học về Nguyễn Đình Chiểu nhân kỉ niệm lần thứ 160 ngày sinh của nhà thơ (1822 – 1982), tổ chức tại Bến Tre từ ngày 29- 30/6/1982. 10. Nhiều tác giả (2001), Văn học sử những quan niệm mới những tiếp cận mới, Hà Nội, Thông tin khoa học xã hội – chuyên đề. 11. N.I.Nikulin (2010), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Văn học- Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Nhiều người dịch. 12. Nghiêm Toản (1968), Việt Nam văn học sử trích yếu, Sài Gòn, Nhà sách Khai Trí. 13. Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII- hết thế kỉ XIX, Hà Nội, Nxb Giáo dục. 14. Nguyễn Q.Thắng (2007), Văn học Việt Nam nơi miền đất mới, tập1, Hà Nội, Nxb Văn học. 15. Nguyễn Tường Phượng - Bùi Hữu Sủng (1952), Văn học sử Việt Nam hậu bán thế kỉ thứ XIX Hà Nội, Trường Nguyễn Khuyến phát hành. 16. Nguyễn Văn Hầu (2012), Văn học miền Nam lục tỉnh, tập ba Văn học Hán Nôm thời kháng Pháp và thuộc Pháp, Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ. 17. Phan Trần Chúc (1960), Văn chương quốc âm thế kỉ XIX, Sài Gòn, Nhà sách Khai Trí. 18. Phạm Thế Ngũ (1996), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên. Tập II-III, Văn học hiện đại 1862-1945, Đồng Tháp, Nxb Đồng Tháp. 19. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ – Ba thế hệ của nền văn học mới (1862-1945), Sài Gòn, Nxb Trình bày. 20. Trần Ngọc Vương (1999), Văn học Việt Nam d ng riêng giữa nguồn chung, Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 21. Văn Tân- Nguyễn Hồng Phong (1963), Lịch sử văn học Việt Nam (sơ giản), Hà Nội, Nxb Khoa học - Ủy ban Khoa học Nhà nước. 22. Viện Văn học (1964), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, Hà Nội, Nxb Văn học. 23. Vũ Đình Liên và tác giả khác (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam – từ thế kỉ XVI đến giữa thế kỉ XIX, tập II, Hà Nội, Nxb Xây dựng. 24. Vũ Đình Liên và tác giả khác (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam – từ giữa thế kỉ XIX đến 1945, tập III, Hà Nội, Nxb Xây dựng. * Ngày nhận bài: 7/11/2013. Biên tập xong: 19/2/2014. Duyệt đăng: 24/2/2014.
File đính kèm:
- sang_tac_cua_nguyen_dinh_chieu_tu_diem_nhin_van_hoc_su.pdf