Hồ Xuân Hương cọ tình vào đá – Cộng hưởng của sự thăng hoa trong sáng tạo nghệ thuật

TÓM TẮT

Vận dụng linh hoạt phương pháp tâm lý học phân tích, lý thuyết siêu mẫu (archetype) của

C.G.Jung (1876-1961) kết hợp với tín ngưỡng phồn thực, nhìn dưới góc độ văn hóa học, Đỗ Lai

Thúy đã thành công khi xây dựng một mô hình nghiên cứu: Thơ Hồ Xuân Hương- văn hóa dâm

tục- tục thờ cúng phồn thực- tín ngưỡng phồn thực. Trên cơ sở của mô hình nghệ thuật này nhà

phê bình đã giải mã biểu tượng và bút pháp nghệ thuật thơ của nữ sĩ qua ba phương diện cơ bản:

1/Những biểu tượng ám ảnh; 2/Sự lấp lửng hai mặt; 3/Triết lý phồn thực. Có thể nói, chính lối phê

bình phân tâm học của Đỗ Lai Thúy thêm một lần nữa đã làm sống lại cái hay, cái đẹp đích thực

của thơ Hồ Xuân Hương mà bấy lâu nay bị chìm khuất trong lớp sương mờ của những thành kiến

hạn hẹp, của những quan niệm bị chi phối bởi ý thức chính thống của xã hội. Có thể coi Hồ Xuân

Hương cọ tình vào đá là sự sáng tạo trên nền của một sáng tạo - sự cộng hưởng của những giá trị

sáng tạo này mang đến cho người thưởng thức những giá trị tinh thần vượt mọi giới hạn thời gian.

pdf5 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 340 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Hồ Xuân Hương cọ tình vào đá – Cộng hưởng của sự thăng hoa trong sáng tạo nghệ thuật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
 thể được ngưng kết thành những 
mẫu cổ, tức là những mô hình nhận thức và 
những biểu tượng. Chúng được truyền từ đời 
này sang đời khác bằng con đường vô thức 
(Jung gọi là di truyền văn hóa). Chính vì vậy 
người ta có thể dựa vào tính hiện thực của 
biểu tượng để đọc được ý nghĩa rộng lớn của 
nhiều lĩnh vực trong đời sống (văn học, triết 
học, ngôn ngữ, sự tuần hoàn của mặt trời, tính 
dục, quy luật vũ trụ,). Để giải mã các biểu 
tượng văn hóa-tôn giáo đã bị chìm khuất bởi 
những lớp trầm tích văn hóa dày thêm bởi 
thời gian đòi hỏi phải có tri thức khoa học, 
kinh nghiệm văn hóa- tôn giáo. Với cách tiến 
hành trên, nhà phê bình đã ngược dòng thời 
gian để đưa cái dâm và cái tục trong thơ Hồ 
Xuân Hương trở về với ngọn nguồn của nó: 
Tín ngưỡng phồn thực- một tín ngưỡng ra đời 
khi nhân loại bước vào thời kỳ trồng trọt và 
chăn nuôi, nảy sinh mơ ước, cầu mong cuộc 
sống nhiều sinh sôi, nảy nở. Thời “thơ ấu” 
loài người quan niệm đơn giản “tục là thiêng, 
thiêng là tục”, cái thiêng, cái tục tuy hai mà 
một, hai khái niệm này chưa có đường biên 
phân biệt rạch ròi. Thơ Hồ Xuân Hương là 
thơ của sự hoài niệm phồn thực, cho nên 
thanh tục trong thơ bà cũng là một, trong tục 
có thanh, trong thanh có tục. 
Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín 
ngưỡng phồn thực, từ góc độ văn hóa nên 
mặc dù cũng bàn về những biểu tượng “ám 
ảnh” trong thơ Hồ Xuân Hương nhưng Đỗ 
Lai Thúy đã có một nhãn quan tiến bộ, mới 
mẻ và nhân văn hơn so với Nguyễn Văn 
Hanh, Trương Tửu. Nếu trước đây các nhà 
nghiên cứu cho rằng: “Dục tình chiếm cả đầu 
óc, ám ảnh nàng. Bao nhiêu thơ của Hồ Xuân 
Hương đều biểu lộ sự khát khao, sự bất 
mãn”[3] và “Cái óc Việt Nam lúc nào cũng có 
cái hình tục tĩu kia ám ảnh đến nỗi cái hình ấy 
đã thành cái khuôn, bao nhiêu ngoại vật phải 
chiếu qua nó, rồi mới vào được trong đầu. Có 
thể người Việt Nam trông sự vật, tả sự vật 
bằng cái giống”[3] thì Đỗ Lai Thúy phát hiện 
trong thơ Hồ Xuân Hương: “ Những biểu 
tượng phồn thực là nỗi ám ảnh của bà. Trước 
hết ở tính toàn hiện của nó. Nghĩa là ở đâu nó 
cũng có mặt. Từ những hình ảnh thực đến ảo 
giác. Vào thế giới Hồ Xuân Hương như bước 
vào một nhà kính vạn gương, những biểu 
tượng phồn thực được nhân lên đến vô tận, 
tạo thành một thế giới riêng biệt, tuy không 
khỏi có sự biến ảnh dị dạng. Nhưng đó chính 
là ống kính đặc tả để ghi lại những trạng thái 
sung mãn nhất của sự sống”[2, 45]. 
Như vậy với Đỗ Lai Thúy chính con đường 
“di truyền văn hóa” đã mang đến cho thơ Hồ 
Xuân Hương những biểu tượng gốc như 
hang, động, khe, giếng, hầm (âm vật), sừng, 
chày (dương vật), giã gạo, đánh đu (hành 
động tính giao), và biểu tượng phái sinh (biểu 
tượng do chính nhà thơ sáng tạo) như cái 
quạt, miệng túi càn khôn (âm vật), con suốt, 
đầu sư, cán cân, dao cầu (dương vật), dệt 
cửu, châm, hút (hành động tính giao), đó là 
những biểu tượng có ý nghĩa phồn thực cả 
trong văn bản và ngoài văn bản thơ Hồ Xuân 
Hương - “Nó mang trên mình những dấu tích 
tuy bị thời gian vùi lấp nhưng không bao giờ 
mất hẳn của tín ngưỡng phồn thực. Nó là mắt 
thơ, điểm chứa năng lượng và phát sáng trong 
thơ của nữa sĩ”[2, 61]. Rõ ràng, con đường 
phi thời gian, con đường vô thức tập thể với 
biểu tượng tín ngưỡng phồn thực đã ảnh 
hưởng đến thơ Hồ Xuân Hương một cách trực 
tiếp. Dưới cái nhìn phân tâm học, những gì 
được hình thành, bật ra từ những ẩn ức và 
ham muốn sâu xa trong các xung năng vô 
thức của người nghệ sĩ đều tiềm ẩn một lực 
hút bí ẩn khó cưỡng, nó mời gọi khám phá, nó 
“luôn luôn có sự vận động chuyển hóa vào 
nhau để tạo thành một trạng thái hòa quyện, 
Cao Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 163 - 167 
 166
hai mà một, tồn tại mà không tồn tại, không 
tồn tại mà tồn tại”[2, 67]. 
Tái tạo lại đời sống tâm hồn của nữ sĩ thông 
qua những điều phát tiết vô thức in dấu ấn 
trong tác phẩm, Đỗ Lai Thúy gợi cho chúng 
ta hiểu tại sao thơ Hồ Xuân Hương bao đời 
nay vẫn duy trì hứng thú cho người đọc, 
được nhiều người yêu thích, cảm thông và 
tiếp cận dễ dàng. Thì ra những con “mắt thơ” 
trong thơ của nữ sĩ Xuân Hương vẫn lấp lánh 
tỏa sáng, một thứ ánh sáng huyền diệu, kỳ ảo 
mang tính lấp lửng, đa nghĩa, lưỡng trị, luôn 
mang lại cho người thưởng thức những khoái 
cảm bởi sự khám phá mới xung quanh những 
điều vi diệu, thiêng liêng nhất của cuộc sống: 
Khát vọng tình yêu và sự tồn sinh của con 
người, sự nảy nở của thiên nhiên, vũ trụ bao 
la  Và điều này có thể được kiểm chứng 
qua hàng loạt thi phẩm: Cái quạt, Giếng thơi, 
Quả mít, Bánh trôi, Tự tình, Động Hương 
tích, Hang Cắc cớ, Đá ông chồng bà 
chồng,[4]. 
Song song với việc phân biệt biểu tượng gốc 
và biểu tượng phái sinh, Đỗ Lai Thúy còn chú 
trọng miêu tả và chỉ rõ những đặc sắc của 
toàn bộ hệ thống ngôn từ đa dạng trong thơ 
Hồ Xuân Hương. Quan sát văn bản thơ, ông 
nhấn mạnh đến lớp từ loại động từ, danh từ 
chỉ vật, tính từ chỉ phẩm chất, trạng từ chỉ 
mức độ. Đọc những trang viết của Đỗ Lai 
Thúy thấy sự hấp dẫn độc đáo ở chỗ ông đã tỷ 
mỉ thống kê và đặt tên cho các biểu tượng rất 
đa dạng và phong phú trong thơ Hồ Xuân 
Hương. Sự cộng hưởng của khả năng đặc biệt 
về sử dụng ngôn từ trong thơ của nữ sĩ xưa và 
khả năng tiếp nhận sâu sắc, tinh tế, sáng tạo 
của nhà nghiên cứu nay đã làm nên một “siêu 
văn bản” để người đọc cộng sinh khoái cảm, 
cùng khám phá tác phẩm với nhà phê bình. 
Có thể nói rằng chính phương pháp phê bình 
phân tâm học của Đỗ Lai Thúy thêm một lần 
nữa đã làm sống lại cái hay, cái đẹp đích thực 
của thơ Hồ Xuân Hương mà bấy lâu nay bị 
chìm khuất trong lớp sương mờ của những 
thành kiến hạn hẹp, của những quan niệm bị 
chi phối bởi ý thức chính thống của xã hội. 
Mặc dù vẫn thừa nhận thơ Hồ Xuân Hương 
giống như Truyện Kiều của Nguyễn Du, 
Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (do 
Đoàn Thị Điểm dịch), Cung oán ngâm của 
Nguyễn Gia Thiều cũng mang tiếng nói nhân 
văn, nhân đạo chủ nghĩa, nhưng dưới ánh 
sáng của lý thuyết phân tâm học, từ tín 
ngưỡng phồn thực, soi chiếu sâu những diễn 
biến trạng thái tâm lý thầm kín vi diệu nhất 
trong con người, Đỗ Lai Thúy khẳng định và 
nhấn mạnh: Thơ Hồ Xuân Hương có nhiều 
yếu tố của triết học tự nhiên – chúng tôi cho 
rằng đây là một phương diện sáng tạo của 
riêng nhà thơ mà các nhà nghiên cứu đi trước 
chưa chú ý đúng mức. Khảo sát một loạt các 
bài thơ nổi tiếng, quen thuộc như Bánh trôi 
nước, Thiếu nữ ngủ ngày, Hỏi trăng, Đá ông 
chồng bà chồng, Đánh đu, Tự tình, Khóc 
Tổng Cóc, Khóc ông phủ Vĩnh Tường, Bỡn bà 
lang khóc chồng, Dỗ người đàn bà khóc 
chồng, Mắng học trò dốt Đỗ Lai Thúy đã 
có lý khi đưa ra nhận định rằng thơ Hồ Xuân 
Hương “được chiếu rọi bằng ánh sáng mới 
của thời đại(), đã tiếp thu được những viên 
ngọc tư tưởng của văn hóa cổ đại đã bị thời 
gian vùi lấp”[2,88 ] và đồng thời thơ bà cũng 
là nơi hội tụ bởi “ảnh hưởng của những yếu tố 
văn hóa cổ đại của Ấn Độ và Trung Quốc do 
Phật, Lão đưa vào hòa lẫn vào văn hóa dân 
gian”[2, 89]. Chính sự kết hợp này đã mang 
đến cho thơ Hồ Xuân Hương tầm triết lý tự 
nhiên (Philosophie de la Nature), “một triết lý 
ca ngợi sự sống, ca ngợi bản chất tự nhiên của 
con người, khuyến khích con người sống và 
phát triển theo tự nhiên và chống lại những gì 
cản trở con người được sống theo tự nhiên, 
làm què quặt con người ”[2, 90]. Đây chính là 
giá trị tư tưởng cao nhất của thơ Hồ Xuân 
Hương, nó vượt lên trên mọi giá trị khác mà 
lâu nay người ta vẫn thường gán cho nó và đề 
cao như nữ quyền, phản phong, chống áp bức, 
tôn giáo. Phát hiện và khẳng định vị trí của 
yếu tố triết học tự nhiên trong thơ Hồ Xuân 
Hương, một lần nữa Đỗ Lai Thúy lại góp 
phần minh chứng: như chiếc chìa khóa, luận 
thuyết phồn thực tỏ ra khá đa năng và vận 
hành linh hoạt trong việc mở những cánh cửa 
để khám phá thế giới nghệ thuật phong phú 
của thơ Hồ Xuân Hương. 
Lý luận hiện đại cho rằng mỗi văn bản nghệ 
thuật là một cấu trúc ký hiệu đa tầng ý nghĩa, 
Cao Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 163 - 167 
 167
một “kết cấu vẫy gọi”(W.Iser), một “mã nghệ 
thuật”(M.Markov). Những thi phẩm của Xuân 
Hương như cái tên của nữ sĩ trẻ mãi cùng năm 
tháng, có phải chăng một phần là bởi những 
giá trị phong phú tiềm phục trong văn bản thơ 
bà luôn bắt gặp người giải mã đồng sáng tạo? 
Có thể coi Hồ Xuân Hương cọ tình vào đá là 
sự sáng tạo trên nền của một sáng tạo - sự 
cộng hưởng của những giá trị sáng tạo này 
mang đến cho người thưởng thức những giá 
trị tinh thần vượt mọi giới hạn thời gian. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Xin xem thêm: Trần Hoài Anh (2009), Lý 
luận – Phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954 
– 1975, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, (tr. 184-195) 
[2]. Đỗ Lai Thúy (2009), Bút pháp của ham muốn, 
Nxb. Tri thức, H. 
[3]. Dẫn theo Đỗ Lai Thúy, Phân tâm học và phê 
bình văn học ở Việt Nam. Nguồn: 
tamlyhoc.net/23.9.2005 
[4]. Thơ Hồ Xuân Hương, Nxb. Văn học, H.1993 
SUMMARY 
HO XUAN HUONG DID RUB LOVE INTO STONE 
– RESONANCE OF SUBLIMATION IN ART CREATION 
 Cao Hong* 
 College of Sciences – TNU 
Using flexibly the method of psychology analysis and Archetype theory of C.G.Jung (1876-
1961) in combination with traditional beliefs, in culturolory perspective, Do Lai Thuy has been 
successful to build a research prototype: Ho Xuan Huong’s poetry - sexual culture- the 
traditional customs of workship -traditional beliefs. Based on this art model, the critic has 
decoded symbols and poetic style of the female poet through three basic aspects: 1/haunting 
symbols; 2/ In limbo sides; 3/ Traditional belief philosophy. It can be said that the criticism of 
Do Lai Thuy’s psychoanalysis has once again revived real beauty of Ho Xuan Huong’s poetry 
that has been hidden too long in limited biases, and conception dominated by mainstream 
consciousness of the society. 
Key words: psychoanalysis, Ho Xuan Huong, culture, fertility, unconscious, beliefs. 
*
 Tel: 0974 088979, Email: caohong5668@gmail.com 

File đính kèm:

  • pdfho_xuan_huong_co_tinh_vao_da_cong_huong_cua_su_thang_hoa_tro.pdf