Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương

TÓM TẮT: Phương ngữ Nam Bộ trên sân khấu cải lương thể hiện ở 3 bình diện ngôn ngữ:

ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và cả phong cách diễn đạt. Thông qua hoạt động cải lương

trong cả vở tuồng và sân khấu, khán giả nhận biết hiện trạng tiếng Việt được thể hiện qua

giao tiếp của người Việt ở Nam Bộ. Tuy là loại hình ngôn ngữ nghệ thuật với những đặc

thù ca, kịch, ngôn ngữ cử chỉ, ; nhưng trên sân khấu cải lương, sự giao thoa giữa ngôn

ngữ đời thường với ngôn ngữ nghệ thuật hết sức đậm nét. Khi nghiên cứu phương ngữ

Nam Bộ, hoạt động giao tiếp sống động này, một thời bị bỏ qua, nên nhiều hiện tượng

phương ngữ Nam Bộ khó có thể lý giải được. Vì vậy, trên cơ sở khái quát phương ngữ, bài

viết tập trung những dẫn liệu từ hoạt động sân khấu để minh chứng sự tổng hợp hài hòa

của tiếng Việt trong giao tiếp của người dân Nam Bộ.

pdf10 trang | Chuyên mục: Nghệ Thuật Biểu Diễn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 226 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
an: Bình Thiếu Quân ơi! Còn 
mưa hông anh? 
Thiếu Quân: Ờ mưa lắc rắc thôi. 
Xuyên Lan: Em lạnh quá hà! 
Thiếu Quân: Để anh đốt lửa cho em 
sưởi, rồi anh đi nghen. 
Xuyên Lan: Đốt lửa trong nhà người 
ta, người ta hổng rầy sao? 
Thiếu Quân: Rầy cái gì, người ta bỏ rồi mà. 
Xuyên Lan: Sao người ta cất nhà, 
người ta hổng ở, người ta bỏ đi vậy anh? 
Thiếu Quân: Ờ mờ Chắc tại ở đây 
làm ăn hổng khá cho nên người ta phải đi 
nơi khác tìm kế sinh nhai. 
Xuyên Lan: Đi chỗ khác người ta giàu hông? 
Thiếu Quân: Ờ Giàu chớ! 
Xuyên Lan: Sao anh biết? Anh có gặp 
người ta hông? 
Thiếu Quân: Ơ Trời ơi, làm sao em 
hỏi cù nhây cù nhưa hoài vậy. Nè anh đã 
nhen bếp lửa hồng rồi nè, em xích lại gần 
đây mà sưởi ấm đôi tay đi! 
Xuyên Lan: Dạ! 
Thiếu Quân: Hừ m 
Xuyên Lan: Sao anh lại thở dài? 
Đoạn trích trên cho thấy, tất cả đều được 
thể hiện dưới dạng giao tiếp mang đặc trưng 
phương ngữ Nam Bộ. Riêng trong tâm sự 
thể hiện trạng thái lãng mạn yêu đương của 
Bình Thiếu Quân với Xuyên Lan, soạn giả 
đã dùng bản “Khốc hoàng thiên” 12 câu, 
nhịp 2 với ngôn ngữ hình ảnh sinh động và 
với hầu hết các nghệ sĩ có thủ diễn 2 vai này, 
họ đều ca với chất giọng Nam Bộ, khán giả 
Nam Bộ dường như mới cảm nhận được hết 
“độ muồi” của các câu ca thể hiện tình cảm, 
tình yêu lãng mạn; mà chàng trai Thiếu 
Quân đã âm thầm, mãnh liệt dành cho cô em 
gái nuôi của mình. Đây là đoạn ca [Khốc 
hoàng thiên] 12 câu, nhịp 2: 
“Thiếu Quân: Nhìn mà thương làm sao 
mười ngón 
1. tay, như ngà trau ngọc chuốt. 
2. Vẫn hồng tươi dầu giá buốt. 
3. Ôi gió nào là dây vũ dây văn, 
4. Ôi mưa bay là giọng sắc giọng cầm. 
Xuyên Lan: 5. Hai tay anh dường có vẻ run, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
48 
6. Anh có xúc động chuyện gì không? 
Thiếu Quân: 7. Anh quý em hơn lụa 
the vàng ngọc. 
8. Đừng ai đổi công hầu tướng khanh. 
Xuyên Lan: 9. Có phải anh đang mơ 
mộng hão huyền 
10. Để lửa bừng làm rát cả tay em. 
Thiếu Quân: 11. Ý, trời ơi, bởi nhìn 
em anh quên bếp lửa hồng. 
Xuyên Lan: 12. Em đui mù anh trêu 
tức làm chi” [12]. Rồi lại [Nói] 
Thiếu Quân: Đâu có, đâu có. Anh nói 
thiệt, chớ trêu tức em làm chi. Thôi, em 
ngồi đây, đừng đi đâu à nghen hôn. Em đi, 
về hông có em, anh dám khóc lắm à. 
Xuyên Lan: Anh là con trai mà khóc cái gì? 
Nhưng mà anh ơi, anh bỏ em một mình sao?” [12]. 
Có những yếu tố ngôn ngữ thật bình dị, 
thường ngày, đậm chất Nam Bộ, như: “Ờ 
mưa lắc rắc thôi; hổng rầy sao; rầy cái gì, 
người ta bỏ rồi mà; hổng ở, hổng khá, giàu 
hông, gặp người ta hông, hông có em; cù 
nhây cù nhưa, nghen hôn, sao anh lại thở 
dài”, lại rất duyên dáng với ngôn ngữ, 
hình ảnh của lời ca. 
Đó còn là ngôn ngữ giàu hình tượng, 
ngôn ngữ của thơ ca, ngôn ngữ của “ý tại 
ngôn ngoại”, dùng ngoại cảnh để diễn đạt 
nội tâm. Như ngôn ngữ của cô gái mù cảm 
nhận về thời gian và tình yêu qua câu Vọng 
cổ: “Tô huynh ơi, em đã bất hạnh mất đi 
nguồn ánh sáng. Không thấy cánh hoa đào 
nở rộ đón tin xuân. Không thấy đông thiên 
hoa tuyết rụng ngập đường. Nghe khoắc 
khoải giọng ve sầu mới hay trời sang hạ. 
Chờ một cơn gió heo may nhè nhẹ, em 
tưởng tượng một mùa thu với trăm xác 
lá ngô... đồng (hò). Nỗi buồn thu đi chầm 
chậm trong lòng (hò). Lá xuân thì đã 
vàng theo mùa tuyệt vọng. Cây xuân thì 
chỉ còn trơ trọi cành xương (xê)(-) (Ký 
hiệu ghi thanh âm nhạc cổ và điệu gõ song 
lang - Chú thích của người viết). Bỗng một 
lần sơ ngộ giữa chòi hoang. Em nghe cành 
xuân tươi lại hoa xuân trổ (hò). Nhưng đó 
chỉ là một mùa xuân hiu quạnh. Vì chim 
yến chim oanh vẫn còn biệt dạng phương 
trời (xề)(-)” [12]. 
Còn đây là ngôn ngữ của những người 
trải đời, ngôn ngữ của thi văn hòa cùng 
nhạc họa được thể hiện qua đoan đối thoại 
có nói, có ca của tướng cướp Thi Đằng và 
thần y Bình Đông Trạch, về việc công tử 
Bình Thiếu Quân bỏ nhà ra đi. Phong cách 
diễn đạt vẫn đậm chất Nam Bộ: 
“Thi Đằng: Còn công tử đâu? 
Đông Trạch: Bình Thiếu Quân con tôi đó hả? 
Thi Đằng: Dạ! 
Đông Trạch: A Nó đã bỏ nhà đi hai 
bữa nay rồi. 
Thi Đằng: Ủa Cậu ấy buồn chuyện 
gì? À Hay là tại núi rừng này hiu 
quạnh lắm chăng? 
Đông Trạch: Không, có lẽ từ hôm nay 
núi rừng mới bắt đầu hiu quạnh, vì không 
còn nghe giọng hát của Thiếu Quân. Mỗi 
bình minh nắng sớm tạt hương rừng, 
sương mỏng thoáng cuốn lời chim theo gió. 
Mỗi hoàng hôn khi chân trời vừa tắt lửa. 
Tiếp đến là một khúc ca [Nam xuân] 
lớp 1, 8 câu, nhịp 4 da diết: 
Đông Trạch: 1. Không còn nghe dìu 
dặt tiếng tơ reo Ru trăng rừng, ngủ 
cùng sương lam. 
2. Bếp lửa cũng mừng reo. Chập 
chờn bóng múa theo. 
3. Chốn lâm sơn xuân vẫn mỹ miều. 
Trong một mái tranh nghèo. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Huỳnh Công Tín và tgk 
49 
4. Nay, nó đã treo đàn, để tơ vàng 
nhện giăng. 
Thi Đằng: 5. Hay sông hồ đã lên 
tiếng, réo gọi tuổi xuân thời. 
6. Nên cậu chán rừng này, dấn 
thân vào cõi xa. 
Đông Trạch: 7. Tất cả cũng tại tôi 
ngày kia lâm bạo bịnh. Tôi kêu nó lại 
mà trối trăn. 
8. Bảo Xuyên Lan không phải là em 
ruột. Nó mới sanh động tà tâm” [12], 
Mặt khác, xét trên bình diện tính cách 
người Nam Bộ, như: “dân tứ chiếng, dọc 
ngang; tư tưởng cởi mở, phóng khoáng; tính 
cách hào hiệp, trọng nghĩa; tấm lòng nhân 
hậu, thủy chung; tinh thần lạc quan, yêu 
đời” [15], trong vở tuồng Tiếng hò sông 
Hậu, các nhân vật Nam Bộ đã bộc lộ đầy đủ 
những phẩm chất này, thông qua ngôn ngữ: 
Về tư tưởng cởi mở, phóng khoáng, có 
thể hình dung qua lời đối đáp của anh Thừa 
với cặp rằn Lựu: “ Thì tui kể như là thả 
trôi sông, xách biếu mười ngày công. Kể 
như làm không công cho Thổ địa, Thổ 
thần. Vui chơi với vắt đỉa, muỗi mòng ba 
đêm cùng bè bạn giao du. Rồi quảy nóp đi 
đều, từ Rạch Gòi, Lịch Hội Thượng hay 
Bãi Giá, Cổ Cò” [7, tr.225-289]. 
Về tính cách hào hiệp, trọng nghĩa, 
qua hình tượng nhân vật Thừa, người xem 
nhận ra một người nghĩa khí cương trực, 
không sống luồn cúi trước cường quyền, 
biết dùng những lời mỉa mai châm biếm để 
đánh thẳng vào cặp rằn Lựu, tên tay sai đắc 
lực của Hội đồng Dư, khi hắn nhờ anh 
xuống bến sông cõng Hội đồng Dư lên bờ: 
“ Cái lưng tui ngay đơ, ổng ngồi không 
vững mà ổng rơi xuống sình thì khốn à!” 
[7, tr.225-289]. Cái lưng “ngay đơ” chính 
là sự ngay thẳng, không dễ gì khuất phục. 
Về tinh thần lạc quan, tuy thiếu tiền, 
vật chất và phía trước là con đường tối, 
nhưng họ vẫn luôn yêu đời. “Nhằm nhè gì! 
Từ năm đó, tao với chú Ba Thạch Sên lãnh 
án mỗi người 6 tháng. Mãn tù ra, lại quảy 
nóp tha hương. Người ta là “nghệ sĩ giang 
hồ điếm cỏ cầu sương”. Mình là nông dân 
nghèo tứ cố vô thân” [7, tr,225-289]. 
3. KẾT LUẬN 
Trên phương diện thực tiễn, khảo sát 
phương ngữ Nam Bộ từ ngôn ngữ sinh hoạt 
đời thường ưu điểm là có được chất liệu 
hiện thực sinh động; nhược điểm là lượng 
mẫu khảo sát ít ỏi, không đồng nhất khiến 
việc khái quát tính điển hình của đặc trưng 
trở nên thiếu thuyết phục. Khảo sát phương 
ngữ ở bình diện nghệ thuật văn chương, 
bao gồm thơ văn, đôi khi sự sáng tạo và hư 
cấu của tác giả làm cho văn bản thiếu chất 
trung thực chừng mực nhất định. May thay, 
việc khảo sát thực tiễn phương ngữ Nam 
Bộ còn có thể được khai thác trong nguồn 
văn học dân gian; đặc biệt là trong kho tàng 
tuồng tích sân khấu cải lương Nam Bộ, cho 
thấy được một điểm mới, có sự hoàn thiện 
hơn. Bởi trong cải lương, cuộc đời thực 
như được tái tạo lại trên sân khấu, vừa 
mang tính hiện thực sắc nét, vừa khái quát 
được nghệ thuật điển hình nhân vật thông 
qua việc khắc họa ngôn ngữ thể hiện lại 
tính cách và tâm lý của họ; đồng thời, trước 
khi được biểu diễn, dù muốn hay không vở 
diễn đã được “phê duyệt”, bởi một hội 
đồng nghệ thuật khách quan đáng tin cậy. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
50 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Nguyễn Văn Ái (Chủ biên) (1994), Từ điển phương ngữ Nam Bộ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 
[2] Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nước – Phương ngữ học, Nxb 
Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
[3] Đỗ Dũng (2007), Âm nhạc Cải lương - Tính năng, giai điệu, Nxb Sân khấu. 
[4] Đỗ Dũng (2013), Đặc điển của ngôn ngữ ca từ Vọng cổ, Nxb Văn hóa-Văn nghệ. 
[5] Cao Xuân Hạo (1978), Số phận của các vần có nguyên âm hẹp qua các phương ngữ lớn 
của Việt Nam, Thông báo Ngữ âm học, Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh. 
[6] Cao Xuân Hạo (1988), Hai vấn đề âm vị học của phương ngữ Nam Bộ, Tạp chí Ngôn ngữ số 1. 
[7] Điêu Huyền (2016), Tiếng hò sông Hậu, Ban Tuyên giáo Thành ủy, Thành phố Hồ Chí Minh, 
Tuyển tập kịch bản sân khấu, quyển 2, Nxb Văn hóa – Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh. 
[8] Nguyễn Như Ý, Đặng ngọc Lệ, Phan Xuân Thành (1999), Từ điển đối chiếu từ địa 
phương, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
[9] Trần Văn Khê (2004), Du ngoạn trong âm nhạc truyền thống Việt Nam, Nxb Trẻ. 
[10] Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
[11] Xuân Phong (2016), Rạng ngọc Côn Sơn, Ban Tuyên giáo Thành ủy, Thành phố Hồ Chí 
Minh, Tuyển tập kịch bản sân khấu, quyển 3, Nxb Văn hóa-Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh. 
[12] Loan Thảo - Yên Ba, Tiếng hạc trong trăng, tư liệu được xả băng từ vở tuồng được 
ghi âm trên https://www.youtube.com/watch?v=mpmnWm8iOWc. 
[13] Vương Hồng Sển (2007), Hồi ký 50 năm mê hát, Nxb Trẻ. 
[14] Huỳnh Công Tín (2009), Từ điển Từ ngữ Nam Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[15] Huỳnh Công Tín (2012), Ấn tượng văn hóa đồng bằng Nam Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[16] Huỳnh Công Tín (2013), Tiếng Sài Gòn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[17] Huỳnh Công Tín (2013), Đặc trưng văn hóa Nam Bộ qua phương ngữ, Nxb Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội. 
[18] Ban Tuyên giáo Thành ủy, Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Tuyển tập kịch bản sân 
khấu, quyển 1, 2, 3, 4. Nxb Văn hóa - Văn nghệ. 
[19] Nhiều tác giả (2014), Nghệ thuật âm nhạc phương Đông: Bản sắc và giá trị , Nxb Đại 
học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh. 
Ngày nhận bài: 26-9-2018. Ngày biên tập xong: 25-10-2018. Duyệt đăng: 28-11-2018 

File đính kèm:

  • pdfphuong_ngu_nam_bo_the_hien_qua_san_khau_cai_luong.pdf