Phép so sánh trong tiểu thuyết của John Steinbeck
TÓM TẮT
Steinbeck là một nhà văn nổi tiếng thế kỷ XX. Ông được đánh giá thành công nhất ở thể loại tiểu
thuyết. Bài viết này, chúng tôi trình bày việc tìm hiểu một khía cạnh: phép so sánh như một
phương tiện ngôn ngữ đặc trưng của Steinbeck trong nghệ thuật tổ chức lời văn – một trong những
phương diện quan trọng nhất của nghệ thuật tự sự. Phép so sánh đóng vai trò quan trọng, giúp lời
văn của Steinbeck có tính tạo hình cao, gợi nên những rung cảm thẩm mĩ mạnh mẽ. Phương tiện
này được Steinbeck vận dụng hết sức linh hoạt ở mọi phương diện, từ nội dung cho đến cấu trúc.
Nó không chỉ là phương tiện mà còn là nội dung góp phần tạo nên giá trị cho tác phẩm của
Steinbeck.
y ngẫm. Mật độ dày đặc cùng sự táo bạo trong cách ví ngƣời với động vật cho thấy: so sánh với Steinbeck không chỉ là phƣơng tiện ngôn ngữ mà còn là một phƣơng thức để cảm nhận, phản ánh thế giới con ngƣời. Steinbeck từng nói: “Thời của chúng ta, ở nhiều phƣơng diện chúng ta không bằng động vật”. “Thời của chúng ta” mà nhà văn nói tới là thời hiện đại, thời chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, hiểm họa phát xít góp phần làm cho con ngƣời bi thảm hơn bao giờ hết. Không phải vô cớ mà từ khắp nơi, hàng loạt tiếng nói đã cất lên tố cáo cái thực tại đáng nguyền rủa và cảnh báo một tƣơng lai ảm đạm sẽ xuất hiện trên cái nền đổ nát ấy nhƣ trong Bi kịch Mỹ (T. Draiser), Babbitt (S. Lewis), Gatsby vĩ đại (S. Fitzgerald) hay trong các tác phẩm của F. Kafka Từ góc nhìn của mình, Steinbeck thêm một tiếng nói về thân phận bi đát của con ngƣời hiện đại. Nội dung so sánh trong tiểu thuyết Steinbeck phong phú, liên tƣởng rộng nhƣng tựu trung, có thể thấy ông có xu hƣớng lấy chuẩn mực so sánh là cái thông tục, hàng ngày. Ngoài những hình ảnh động vật mang vẻ thô thiển, trong so sánh của ông rất nhiều hình ảnh trần trụi, đời thƣờng. Ví dụ: “Sự giận dữ lúc nào cũng lơ lửng trong nhà nhƣ làn khói”, “Mặt ngƣời đàn ông nhƣ mảnh giẻ nhàu nhĩ”[4], “Đôi bàn tay nằm trong vạt áo nhƣ đôi nhân ngãi mệt mỏi”, “Khuôn mặt bà xám ngoét, nhƣ hóa đá”, “Lửa trong lò chuyển màu đỏ nhƣ vang”, “Môi trên nhƣ cái màn gió che lấy hàm răng”, “Họ không khác gì những con chim đập cánh trong kho thóc”, “Ngƣời ta phải đi nhƣ con bọ hung giữa các luống xà lách, phải cong lƣng kéo các bao tải dài và quỳ gối mà lê lết nhƣ ngƣời chịu tội giữa các luống bông”[5] Những hình ảnh có vẻ tùy tiện, thô nhám này góp phần quan trọng làm nên đặc trƣng ngôn ngữ Steinbeck. Kết hợp cùng với những từ ngữ sinh hoạt chƣa đƣợc trau chuốt, chúng không những đem lại cho cái đƣợc mô tả vẻ sinh động, cụ thể mà còn gợi mở tầng nghĩa mới. Ví dụ, mô tả không khí trong gia đình Jim Nolan, nhà văn so sánh: “Sự giận dữ lúc nào cũng lơ lửng trong nhà nhƣ làn khói”. “Sự giận dữ” là danh từ chỉ trạng thái tinh thần, đƣợc so sánh với hình ảnh cụ thể có thể nhìn thấy bằng thị giác “làn khói”. Bằng so sánh này, Steinbeck không chỉ diễn tả sinh động một khái niệm khá trừu tƣợng mà còn tạo cho tác phẩm có tính gợi hình, biểu cảm cao. Sự giận dữ thƣờng trực, ám ảnh, nặng nề nhƣ khói luẩn quẩn trong Hoàng Thị Thập Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 117(03): 9 - 13 12 nhà gợi liên tƣởng đến một không gian đặc quánh sự giận dữ, đồng thời gợi tâm trạng, tình thế của nhân vật. Mặt khác, trong phạm vi ngôn ngữ nghệ thuật, với lối so sánh nhƣ vậy Steinbeck đã đem đến cho những cái thông tục hàng ngày những giá trị mới. So sánh trong văn chƣơng truyền thống vốn chuộng những từ ngữ hoa mĩ, hình ảnh rực rỡ. Thay vì những từ ngữ, hình ảnh nhƣ vậy, so sánh của Steinbeck lại ngổn ngang từ ngữ, hình ảnh trần trụi, thô ráp. Qua việc sử dụng các từ ngữ, hình ảnh “mảnh giẻ nhàu nhĩ”, “con bọ hung”, “con chó”, “con sói đồng”, “con đƣời ƣơi”, “bộ xƣơng”, “con cá”, “máu đông đặc” có thể thấy ông đã “phàm tục hóa” ngôn ngữ, đem cái đời thƣờng vào văn chƣơng. Sử dụng nhiều so sánh kiểu nhƣ vậy thể hiện phần nào quan niệm thẩm mĩ của Steinbeck. Những sự vật, hiện tƣợng vốn dĩ đƣợc xem là tầm thƣờng, trong cảm nhận của ông, ngang bằng với những sự vật cao quý và ngƣợc lại. Vì vậy, các từ ngữ, hình ảnh đời thƣờng đƣợc ông đặt bình đẳng với ngôn từ chau chuốt, mĩ lệ một cách tự nhiên. Một điểm khác dễ nhận thấy, Steinbeck rất linh hoạt, biến hóa trong việc tạo dựng cấu trúc so sánh. Phần lớn so sánh của ông đều đủ bốn yếu tố: cái cần so sánh (A), cơ sở so sánh, từ so sánh, cái dùng làm chuẩn so sánh (B) nhƣ: “Đám đàn ông chạy nhƣ lũ thỏ” (Guys ran like rabbits)[3]. Tuy nhiên, nhiều trƣờng hợp, cấu trúc quen thuộc này bị phá vỡ. Thêm nữa, ngoài việc đảo trật tự các yếu tố, ông còn giản lƣợc chúng hoặc làm ngƣợc lại, mở rộng cấu trúc bằng nhiều so sánh chồng chéo nhau. Cấu trúc so sánh đầy đủ trong văn Steinbeck thƣờng là những câu rất ngắn. Ví dụ: “Joad gặm ăn nhƣ một con thú” (Joad eat scowling like an animal), “Họ sống nhƣ những con lợn” (They‟re live like pigs), “Chúng hoang dã nhƣ những con thỏ” (They are wild as rabbits) [5] ... Những so sánh ngắn gọn, rõ ràng nhƣ vậy vừa diễn tả sinh động đối tƣợng phản ánh đồng thời lại tiết chế vừa độ cảm xúc. Câu văn thiên về miêu tả khách quan hơn là những phân tích chủ quan. Chúng góp phần tạo cho ngôn từ kể chuyện của ông giọng điệu trung tính không quá lạnh lùng. Với những so sánh giản lƣợc, nhà văn thƣờng loại đi hai yếu tố đầu, còn lại hai yếu tố sau: từ so sánh và cái so sánh. Ví dụ: “Giống nhƣ con ma cũ vật vờ trong nghĩa địa” (Like a damn ol‟ graveyard ghos‟), “Giống nhƣ đàn kiến suốt đời tìm kiếm việc làm, thức ăn và trên hết là ruộng đất” (Like ants scurrying for work, for food, and most of all for land)[5], “Giống nhƣ bầy lợn quanh cái máng” (Like a bunch of hogs), “Nhƣ một con vật khổng lồ ”(Like a big animal)[3]... So sánh bắt đầu với những từ: Giống nhƣ NhƣDƣờng nhƣ (as, like, seem) là những câu đặc biệt giống nhƣ những mệnh đề. Đặt trong mạch văn của ông, chúng là những quãng ngắt, điểm dừng bất chợt nhấn mạnh mạch cảm xúc vốn không nhiều. Nó góp phần tạo nhịp điệu lạ trong văn phong Steinbeck. Steinbeck cũng tạo bất ngờ với những câu so sánh mở rộng, ngƣợc với so sánh giản lƣợc. Đây là kiểu cấu trúc đầy đủ nhƣng đƣợc tăng thêm các vế so sánh. Chẳng hạn, miêu tả những chiếc xe hơi của đoàn ngƣời di cƣ: “Vào lúc bình minh, chúng đi gấp về hƣớng tây giống nhƣ đàn rệp và khi bóng đêm nhƣ chụp lấy chúng, chúng bu lại giống nhƣ những con rệp gần nơi trú ẩn và có nƣớc” (In the daylight they scuttled like bugs to the westward; and as the dark caught them, they clustered like bugs near to shelter and to water)[5] Đôi khi so sánh đƣợc sử dụng liên tục tạo thành một chuỗi các cụm từ, câu tác động mạnh vào tâm trí ngƣời đọc. Chẳng hạn: “Họ từ trên núi cao tràn xuống nhƣ những cơn lũ, bụng rỗng và đứng ngồi không yên, lăng xăng nhƣ những con kiến. Giống nhƣ đàn kiến suốt đời tìm kiếm thức ăn và trên hết là ruộng đất. Trên đƣờng cao tốc đoàn ngƣời di chuyển nhƣ đàn kiến tìm kiếm thức ăn, việc làm”[5]. So sánh chồng chéo lên nhau trong một mặt Hoàng Thị Thập Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 117(03): 9 - 13 13 bằng nhỏ hẹp nhƣ dồn đống lại các đơn vị ngôn ngữ nhƣ vậy tô đậm thêm hình ảnh đƣợc so sánh, khiến cho hình tƣợng trở nên sâu sắc, ám ảnh. Hình ảnh đoàn ngƣời di cƣ trong một nỗ lực tìm kiếm thức ăn, việc làm đƣơc ví với loài côn trùng nhỏ bé trở đi trở lại không chỉ thể hiện cảm xúc mà gợi ý nghĩa sâu xa về thân phận con ngƣời. Con ngƣời hiện lên trong so sánh vừa đáng trọng ở sự nỗ lực vƣơn lên vừa đáng thƣơng ở sự bất lực trƣớc thực tại. Việc sử dụng trùng điệp nhiều vế so sánh tạo hiệu ứng tăng cấp cho sắc thái tu từ. Chính vì vậy, dù so sánh mở rộng xuất hiện ít hơn kiểu đầy đủ ngắn gọn và kiểu giản lƣợc nhƣng mỗi khi xuất hiện, nó tạo ra hiệu ứng khác thƣờng. Trong khi các so sánh ngắn, giản lƣợc nhƣ những quãng ngắt, thì những câu so sánh mở rộng giống nhƣ đoạn ngân dài của những mạch cảm xúc tạo nên sự đối âm trong ngôn ngữ trần thuật của ông. Ví dụ trong một đoạn ở chƣơng năm của Chùm nho phẫn nộ, sau tám câu ngắn miêu tả cảnh cánh đồng của nông dân bị tàn phá tan hoang, nhà văn chốt lại câu cuối : “Những chiếc máy cày kéo tới trên các đƣờng cái, đi sâu vào các cánh đồng, trông hệt những loài bò sát to lớn, cử động nhƣ những loài côn trùng, cùng với sức mạnh khôn tả của loại côn trùng”[5]. Câu văn không chỉ nhấn mạnh về nội dung: làm nổi bật sự lạnh lùng, vô cảm của máy móc công nghiệp, mà còn còn đạt tới một hiệu quả nghệ thuật khác. So sánh chồng lớp sau các câu ngắn làm nên giai điệu đẹp cho đoạn văn, để lại dƣ âm khó phai. Sử dụng linh hoạt phép so sánh có thể xem là một trong những thành công trong nhiều thể nghiệm của Steinbeck. Nó không chỉ là phƣơng tiện mà còn là nội dung góp phần làm cho tiểu thuyết của Steinbeck vƣợt qua giới hạn của những tác phẩm chứng minh cho một giai đoạn lịch sử, đạt tới giá trị của tác phẩm viết về lịch sử hiện sinh của con ngƣời./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Thiện Đạo (2003), Cửa sổ văn chương thế giới, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Tr.57 2. Susan Shillinglaw (1012), John Steinbeck, review and Studies, San José State University. Tr. 116. 3. John Steinbeck (2002), In Dubious Battle, Penguin Group (USA) Inc. Tr.185-44-153- 66-79- 40-243-16-74- 251-116. 4. John Steinbeck (2007), Of Mice and Men, Penguin Group (USA) Inc. Tr.7-12; 42-49-99. 5. John Steinbeck (2006), The Grapes of Wrath, Penguin Group (USA) Inc. Tr. 26-43-194-245-66- 214-73-452-34-268-23-50-451-21-11-312-501-43- 94-17-52. SUMMARY SIMILE IN STEINBECK’ NOVELS Hoang Thi Thap * College of Education - TNU Steinbeck is a famous writer of the twentieth century. His novels are recognized very successful. The purpose of the present study is to desmontrate the simile as a means of Steinbeck specific language in the wording arts organization - one of the most important aspects of the art of narration. The simile plays an important role in helping prose of Steinbeck achieve high visual features, evoking the vibe strong aesthetic. Steinbeck applied the simile very flexible in every aspect, from the content of works to its structure. It is not only the means but also the content. It contributes to the success of of Steinbeck‟s writing. Key words: Steinbeck, simile, novel, narration, structure. Ngày nhận bài:29/01/2014; Ngày phản biện:17/02/2014; Ngày duyệt đăng: 17/3/2014 Phản biện khoa học: TS. Ôn Mỹ Linh – Trường Đại học Sư phạm - ĐHTN * Tel: 0945 333616
File đính kèm:
- phep_so_sanh_trong_tieu_thuyet_cua_john_steinbeck.pdf