Luận về những đặc điểm nổi bật của thơ chữ Hán thời Lê (Phần một)

Tóm tắt: Triều đại nhà Lê với lịch sử gần bốn trăm năm có tầm quan trọng trong lịch

sử văn hóa trung đại Việt Nam. Thời kỳ này, các sứ thần Trung Quốc và Đại Việt có

sự giao lưu mật thiết. Vua quan lấy thơ ca làm phương thức đối đáp ngâm vịnh trong

những buổi giao lưu long trọng giữa các sứ thần. Hán học có vị trí cao trong xã hội

thể hiện những tâm tư sâu xa của các nhà Nho làm thơ, làm cho những sáng tác thơ

chữ Hán trong thời kỳ này chiếm lĩnh những đỉnh cao của thi đàn dân tộc. Nội dung

chính của bài viết gồm những thành tựu chủ yếu của thơ chữ Hán thời Lê, nổi bật nhất

là yếu tố con người trong tác phẩm, đặc biệt là tác phẩm ít người biết đến. Bài viết

phân thành hai phần: một và hai. Phần một tập trung thảo luận ba nội dung chính: (1)

Sáng tác thơ chữ Hán của vua quan khai quốc triều Lê, (2) Thơ giáo huấn trị quốc

của Lê Thánh Tông, và (3) giao lưu giữa văn nhân Đại Việt và triều Minh

pdf11 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 302 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Luận về những đặc điểm nổi bật của thơ chữ Hán thời Lê (Phần một), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
ngày tháng dài. 
Rắn vẽ thêm chân cho mệt xác; Cua bò rỗng ruột khó lừa ai. 
Sao bằng yêu mệnh vui cùng đạo; Dù thiệt dù hơn cũng thế thôi. 
 (Đinh Gia Khánh, 2000, Tập 4, tr. 249) 
Bài thơ được viết với tiêu đề Mạn hứng, nghĩa là ngẫu nhiên từ một cảm hứng cảm xúc. 
Nhưng ngẫu nhiên ấy là cả một kinh nghiệm đúc rút từ cuộc đời bằng câu hỏi mở đầu của 
hai bài thơ: Thử hỏi người đời cớ sao phải ngược xuôi tất tả, mắc mứu vướng vít mãi trong 
trường lợi danh; để rồi cuộc đời trải qua bao được mất vui buồn như một giấc mộng, khi 
nhìn lại mình đã là ông già 49 tuổi. Đây là hai câu hỏi và cũng là động cơ để họ xa lìa cuộc 
đời phồn hoa đô hội, không đắm chìm vào lạc thú phù du tạm bợ của danh lợi, điều mà 
những bậc sĩ phu như nhà thơ Lý Tử Tấn hết lòng mong mỏi, các vị yêu thích sự vắng vẻ và 
yên tĩnh, sống trong sạch. Thanh danh, sự nghiệp, hoàn cảnh vinh hiển chỉ như một giấc 
mộng, không thể làm cho nhà thơ quên lối sống thanh đạm của mình. Trong thơ, hầu như 
mỗi câu đều có dùng điển tích từ tư tưởng Lão Trang. Mô típ này trở thành cơ sở niềm tin 
khi đối nhân xử thế trong cuộc đời của tác giả. Với phương pháp so sánh, ẩn dụ, được diễn 
đạt bằng ngôn từ mộc mạc trong sáng cùng cấu trúc thơ ca chặt chẽ, nhịp điệu hài hòa như 
kể, như thì thầm, như ngâm nga chiêm nghiệm về cuộc đời mà tự mình đã quan sát, suy 
ngẫm từ lâu, giữa cuộc thăng trầm của thế sự. Ảo mộng của người đời như thế, nhà thơ tự 
nhủ: sao bằng vui với đạo ở yên theo mệnh trời. 
14 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
Vào những năm đầu nhà Lê cũng có không ít nhà thơ chữ Hán cự tuyệt con đường 
làm quan, cam nguyện sống cuộc đời an bần giữ đạo. Lý Tử Cấu là nhà thơ tiêu biểu 
trong số các nhà thơ này. Bài thơ Thuật chí sau thể hiện tương đối rõ chí hướng của ông: 
不林不市不公侯,不學蘇秦只弊裘。 
風月長供詩社興,江山正作醉鄉遊。 
平生未改桑君硯,到處聊為王粲樓。 
縱使世人多噂杳,也應無怒到虛舟。《述志》(Bùi Huy Bích, Quyển 3) 
Dịch thơ: Thuật chí 
Chẳng rừng chẳng chợ chẳng khanh công; Chẳng học Tô Tần áo rách bong. 
Thơ hứng gió trăng ngâm chẳng cạn; Rượu say sông núi dạo không cùng. 
Tang quân nghiễn cũ không thay đổi; Vương Xán “lầu cao” luống nhớ trông. 
Giá phỏng người đời nhiều quở trách; Cầm bằng không giận chiếc thuyền không. 
(Đinh Gia Khánh, 2000, Tập 4, tr. 310) 
Lý Tử Cấu là Thái học sinh với phẩm chất liêm khiết, khí tiết thanh cao. Thời nhà 
Hồ, vua mời ông làm quan đến chức Thái tử hữu dụ đức, nhưng ông từ chối. Vào thời 
nhà Lê nhiều lần mời ông ra làm quan, song ông không chịu ra. Đương thời, đã có 
không ít nhà thơ bằng lòng xa rời chốn quyền quý: một là để giữ tiết tháo, hai là ảnh 
hưởng của phong trào muốn tìm cuộc sống ẩn cư của giai tầng trí thức quý tộc ở Trung 
Quốc, muốn coi đời sống làng quê là đời sống thanh cao. Trong không khí sống đời ẩn 
cư này, cho dù trong xã hội có nhiều kẻ sĩ nhận chức làm quan, thì trong số đó không ít 
người trong thâm tâm họ vẫn mong muốn sống ẩn cư nhàn, điều này thường thấy trong 
một số lượng lớn bài thơ chữ Hán có màu sắc hương vị của lý học thời nhà Tống. 
3. KẾT LUẬN 
Nhìn chung, Đại Việt sau khi độc lập, tiến trình phát triển thơ chữ Hán về thể tài và 
hình thức chỉ sau thơ Trung Quốc và đã hình thành nên dòng văn học chủ lưu của thơ ca 
Việt Nam. Thơ chữ Hán đã góp phần làm phong phú hơn thế giới nội tâm của con người, 
mở ra trước mắt người đọc một tâm tình với cuộc đời, một thiên nhiên, một quê hương 
đầy cảm xúc và thanh sắc; mang đến một cái tôi vừa hòa nhập trong thiên nhiên, vừa cá 
thể hóa trong cách cảm thụ thế giới. Hoạt động thơ chữ Hán lúc đó là chuyện sang trọng, 
thiêng liêng, là lý tưởng sống của một lớp người. Làm thơ là cách gửi gắm tâm tình sâu 
lắng, cho nên người xưa đã đi vào thơ với tất cả niềm say mê và tâm huyết của mình. 
 Lịch sử thơ chữ Hán trải qua triều Đinh, Lê, Lý, Trần đến thời hậu Lê, Nguyễn với 
hơn 1000 năm lịch sử. Trong hơn một ngàn năm này, có nhiều nhà thơ và tác phẩm thơ có 
ảnh hưởng lớn đến lịch sử nền văn học Việt Nam. Nhận định về tầm quan trọng của văn học 
chữ Hán đối với nền văn hóa dân tộc, Ngô Thời Sĩ, một học giả Việt Nam viết rằng: 
Nước Đại Việt lấy văn hiến lập nước. Thơ ca từ thời Đinh, Lý qua thời Trần, rồi đến 
nhà Lê thời vua Hồng Đức thì phát triển rực rỡ. Một bộ Toàn Việt thi với hình thức thơ cổ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 37/2020 15 
thể, thật không thua kém thơ những bài thơ hay giáp ngọc xao kim (gõ ngọc khẻ vàng) của 
thơ ca thời Đường, Tống, Nguyên, Minh của Trung Quốc, thật đáng gọi là một đất nước thơ 
ca. Trong số những tác phẩm hay, những nhà thơ có tác phẩm đạt đến trình độ cao về cấu tứ 
và bố cục thơ gồm Thái Lữ Đường, Bạch Vân Am, rồi tiếp đến các nhà thơ nổi tiếng sau 
thời Lê Trung Hưng. Ngoài ra, những tác phẩm hay ta có thể thấy đan xen trong những tập 
thơ của các sứ giả Đại Việt trong hành trình đi sứ đến Trung Quốc. Trong số đó, có vị thích 
đến những nơi sơn thủy xa xôi hẻo lánh để tìm hương vị cổ xưa, có vị cảm xúc trước phong 
cảnh hữu tình, có vị đi xa thì nhớ quê hương, có vị nhân sự việc để nói lên chí hướng, tất 
cả đều trở thành di sản văn hóa quý báu, như nguồn nước mát thấm nhuần cho các thế hệ 
đời sau. Thơ cũng như vậy, đi qua hàng rào của thơ Trình Chu, băng qua đất nước thơ phú 
của Khuất Nguyên và Tống Ngọc thời Chiến quốc, vượt qua căn phòng của Hàn Dũ và 
Phạm Trọng Yêm tác gia văn học nổi tiếng đời Tống, mà vượt lên trên con đường lớn của 
thơ Lý Bạch và Đỗ Phủ” (Phan Huy Ích, tr. 5). 
Lập luận của họ Ngô tuy có điểm tự mình khoe sáng, nhưng những thành tựu của 
thơ chữ Hán làm cho nước Đại Việt trở thành đất nước của thi ca trong Á Đông, tưới 
nhuần cho đời sau. Tóm lại, thời kỳ đầu nhà Lê, thơ chữ Hán phát triển mạnh, và đây 
cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ thơ ca chữ Hán thời trung đại. 
Chú thích: 
1. Sách Minh Thái Tổ Thực Lục, quyển 5, mục 13 viết rằng: “Tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 5 
(Đinh Hợi), quan tổng binh tại Giao Chỉ gồm có Tân Thành Hậu, Trương Phụdâng biểu 
đến vua nhà Minh rằng: khi đến tìm quận Giao Chỉ thăm hỏi tìm kiếm người có tài có đức, 
am hiểu kinh điển, thông Kinh giỏi Văn, học rộng có tài, thông minh chính trực, hiếu đễ 
lực điền, hiền lương phương chính, thông đạt thế sự, giỏi về binh pháp, quen thuộc việc 
quan, và những người tài võ song toàn thì có khoảng 9 ngàn người. Họ liên tục được phái 
sang Kinh đô. Nơi đây vào mùa đông thời tiết lạnh giá,những người ở miền Nam mất 
mùa chịu đựng vất vả thời tiết này, nay ta lệnh Bộ công vào kho lấy áo quần mền gối tất 
giày để cung cấp cho những người đang gặp nạn”. 
2.  /Lê-Thái-Tổ/Chinh-Điêu-Cát-Hãn-hoàn-quá-Long-Thuỷ-đê/ 
3. Tập thơ Quỳnh Uyển Cửu Ca chủ yếu ghi lại những tác phẩm thơ của Lê Thánh Tông sáng tác 
cùng 24 vị triều thần cùng họa vần, gồm Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Ngô Luân, Ngô Hoán, 
Nguyễn Xung Xác, Lưu Hưng Hiếu, Nguyễn Quang Bật, Nguyễn Đức Huấn, Vũ Dương, Ngô 
Thầm, Phạm Đương Phú, Chu Huyên, Ngô Văn Cảnh, Phạm Trí Khiêm, Lưu Thư Ngạn, Nguyễn 
Nhân Bị, Nguyễn Tôn Miệt, Ngô Quyền, Nguyễn Bảo Khuê, Bùi Phổ, Dương Trực Nguyên, Đỗ 
Thuần Như, Phạm Như Huệ, Chu Hoán, Phạm Cẩn Trực, Nguyễn Ích Tổn, Lưu Yì(曎), Đàm 
Thận Huy, người đương thời gọi là “Tao đàn nhị thập bát tú”. Ngoài ra còn có các tập thơ như 
Văn Minh Cổ Súy, Minh Lương Cẩm Tú, Xuân Phương Thi tập, Hiếu Trị thi tập, 
4. Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, Quyển XIII (file PDF), Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội, tr. 481. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt Sử ký Toàn thư (Nội các quan bản), Nxb Khoa học Xã hội, 
Hà Nội, Quyển 2. 
吴士连. 大越史记全书(内阁官版)[M].河内:社会科学出版社,1998. 
16 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
2. Bùi Huy Bích, Hoàng Việt Thi Tuyển (Bản chữ Hán), Viện nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, 
Bản A306, Quyển 1,2,3. 
裴辉璧. 皇越诗选(汉文本)[M].越南汉喃研究院. A306. 
3. Đinh Gia Kháng, Bùi Văn Nguyên, (2000),Tổng tập Văn học Việt Nam, Tập 4, Nxb Khoa 
học Xã hội, Hà Nội, tr.70, 249, 310. 
4. Viện Sử học (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 285, 310. 
5. Viện nghiên cứu Hán Nôm (1986), Thơ văn Lê Thánh Tông, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
6. Nguyễn Huệ Chi (1998), Thơ văn Lý Trần, Tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
7. Trương Đăng Quế (1963), Đại Nam Thực Lục, Nxb Hữu Lân đường, Viện nghiên cứu 
Ngôn ngữ Văn hóa Đại học Khánh Ưng Nghĩa Thục, Nhật Bản. 
张登桂. 大南实录[M].日本:庆应义塾大学言语文化研究所整理,有邻堂出版,1963. 
8. Lý Văn Phượng (1997), Việt kiểu thư, Quyển 20, Tứ khố toàn thư tồn mục tùng thư, Sử bộ 
161, Nxb Tề Lỗ thư xã, Sơn Đông. 
[明]李文凤《越峤书》卷二十。四库全书存目丛书 , 史部 161 , 齐鲁书社 1997 年版。 
9. Phan Huy Ích, Tinh sà kỷ hành, Thơ tập tự, Viện nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, Bản 
A.603, tr. 5. 
潘辉益. 星槎纪行.(影印本)诗集序. 越南汉喃研究院藏抄本(A.603) 
DISCUSSING ON THE OUTSTANDING EXPRESSION 
OF CLASSICAL CHINESE POEMS WRITTEN BY VIETNAMESE 
IN THE LE DYNASTY (PART ONE) 
Abstract: The Le dynasty with a history of nearly four hundred years plays an 
important role in cultural history in medieval Viet Nam. During this period, Chinese 
and Dai Viet envoys had frequent contacts. Sinology has a high position in society, 
from the leading mandarin taking poetry as a way of responding to recite verses, the 
solemnity of the association between the envoys, and the deep in thought of the 
scholar writing poetry, so the classical Chinese poems written by Vietnameseduring 
this period reached its peak. This paper presents the outstanding expression of 
classical Chinese poems written by Vietnameseunder the perspective of human being 
in the works, especially the lesser known works including two parts: part one and part 
two. The part one focuses on discussing three main contents: first, the classical 
Chinese poems written by the founding monachs and ministers of the Le dynasty; 
second, Le Thanh Tong’s poetry teaching and ruling the country; and third, the 
communication of poems between the Le dynasty and the Ming dynasty. 
Keywords: the emperors and ministers of the Le dynasty sing hymns, envoy poetry, 
poems written by Chinese Vietnamese people, highlight characteristic of the classical 
Chinese poems written by Vietnamese. 

File đính kèm:

  • pdfluan_ve_nhung_dac_diem_noi_bat_cua_tho_chu_han_thoi_le_phan.pdf