Những chuẩn mực đạo đức cơ bản của người Việt Nam trong ca dao, tục ngữ
Ca dao, tục ngữ là sản phẩm của đông đảo quần chúng nhân dân Việt Nam,
phản ánh phong phú, đa dạng đời sống sinh hoạt của nhân dân, nhất là mối
quan hệ giữa con người với con người trong cuộc sống. Trong đó, các chuẩn
mực đạo đức như: lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất hay
tinh thần nhân nghĩa và các đức tính trung thực, cần cù, tiết kiệm của người Việt
Nam cũng được thể hiện trong ca dao, tục ngữ với biểu đạt hết sức ngắn gọn,
dễ nhớ, dễ đi vào lòng người. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả tập trung phân
tích làm rõ một số chuẩn mực đạo đức cơ bản được thể hiện qua ca dao, tục
ngữ
ổng”, “Chạy như chạy lý trưởng” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 1: 776) ám chỉ những vị trí dễ bòn rút, tham ô của dân. Hay lên án chúa Nguyễn vì chúa Nguyễn đã từng giao TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 18 hảo với Pháp, tạo tiền đề cho Pháp vào xâm lược Việt Nam, gieo rắc nỗi bất hạnh cho nhân dân ta “Thằng Tây hắn ở bên Tây/ Bởi vua chúa Nguyễn rước thầy đem sang/ Cho nhà cho nước tan hoang/ Cho thiếp ngậm đắng, cho chàng ăn cay” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 15: 272). 3.2. Nhân nghĩa trong ca dao, tục ngữ Việt Nam Từ xa xưa, con người Việt Nam vốn đoàn kết, tương thân, tương ái, nương tựa vào nhau để vừa chống chọi với những khắc nghiệt của thiên nhiên, vừa đấu tranh chống quân xâm lược, do đó, tư tưởng nhân nghĩa của con người Việt Nam cũng sớm được hình thành. “Nhân nghĩa” chính là “lòng yêu thương và sự trọng điều phải” (Nguyễn Lân, 2006: 1323). Con người yêu thương nhau phải hành động vì nhau và đó là điều phù hợp với đạo lý và lợi ích chung của xã hội. Điều này được phản ánh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam trên một số phương diện cụ thể. Một là, lòng yêu thương, trước hết giữa những con người chung huyết thống trong gia đình đến mối quan hệ với những người xung quanh và cao hơn nữa đó là mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng xã hội. “Ơn cha, nghĩa mẹ cao dày/ Tình chồng nghĩa vợ thảo ngay trọn đời” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 15: 306, 430). Trong mối quan hệ thầy - trò, bè bạn “Muốn sang thì bắc cầu kiều/ Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 15: 619). Với bạn bè, “Bạn bè là nghĩa tương tri, sao cho sau trước một bề mới nên” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 1: 439). Thông qua ứng xử từ những mối quan hệ này với hàng xóm, cộng đồng, xã hội con người điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp, trên tinh thần tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau như “tối lửa tắt đèn có nhau”, đoàn kết, gắn bó với nhau để chinh phục thiên nhiên và hợp lực tạo nên sức mạnh chống quân xâm lược. Rộng hơn nữa, ca dao, tục ngữ đề cập đến các quan hệ “đồng bào” trong cùng một đất nước, sẵn sàng hành động vì tình thương đối với đồng bào, đối với quê hương, đất nước. Tình thương ấy không chỉ là giúp đỡ nhau vượt qua mọi khó khăn, mà còn là sự cảm thông, chia sẻ những nỗi đau, mất mát của con người trong một cộng đồng, xã hội, như “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 2: 69 ); “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 15: 625). Hai là, khuyến khích, cổ vũ cho việc thiện, điều tốt, bảo vệ lẽ phải, đồng thời phê phán, lên án những thói hư tật xấu gây hại cho cộng đồng, xã hội. Những câu tục ngữ, ca dao “Có đức NGUYỄN QUẾ DIỆU – NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC 19 mặc sức mà ăn” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 2: 133); hoặc “Làm trai đứng ở trên đời/ Sao cho xứng đáng giống nòi nhà ta/ hé vai gánh đỡ sơn hà/ Sao cho tỏ mặt mới là trượng phu” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 15: 1092) qua đó nhắn nhủ mọi người biết tôn trọng lẽ phải và biết cách xử sự cho đúng mực, hợp tình hợp lý trong cuộc sống. Ba là, bên cạnh sự cổ vũ cho việc làm, hành động vì lẽ phải, thì đồng thời lên án những hành vi bất nghĩa, phê phán những thói hư tật xấu nhằm chống cái ác, hướng con người tới cái thiện. “Ác giả ác báo, hại nhân nhân hại”, “Cấy ác thì gặt ác” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 2: 629, 631); “Ra tay cầm lửa đốt trời, chẳng may lửa rớt lửa rơi xuống đầu” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 2: 640); “Nghĩa nhân chi thứ cường quyền/ Chúng chỉ vì tiền sinh chuyện hại dân” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 15: 636). 3.3. Đức tính trung thực, cần cù, tiết kiệm của con người Việt Nam trong ca dao, tục ngữ Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam gắn liền quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế - xã hội nông nghiệp truyền thống. Từ xa xưa, các thế hệ cha ông ta đã khai hoang lập ấp, phát triển chăn nuôi và trồng trọt, hình thành các cộng đồng dân cư. Hàng ngàn năm qua dân tộc Việt Nam vừa đấu tranh chống ngoại xâm vừa chống chọi với thiên tai và cải tạo thiên nhiên đã góp phần to lớn trong việc hình thành, mở mang nền văn hóa dân tộc. Nền kinh tế nông nghiệp và đời sống xã hội ở nông thôn đã tạo nên sự cố kết và tính cộng đồng về mặt dân cư và lãnh thổ của các làng, xã. Sự cố kết này dựa trên quan hệ láng giềng, huyết tộc hoặc dòng họ, hình thành nên quan hệ nhà - làng - nước hết sức bền vững của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, để củng cố mối liên kết nhà - làng - nước ấy, những đòi hỏi về mặt đạo đức cũng được đặt ra cho con người sống trong cộng đồng xã hội, đó là con người cần phải có các đức tính như trung thực, cần cù, tiết kiệm. Đức tính trung thực, cần cù, tiết kiệm của con người Việt Nam phản ánh qua ca dao, tục ngữ khá sâu sắc “Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành”, “Những người tính nết thật thà, đi đâu cũng được người ta tin dùng” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 2: 618, 624); “Người gian thì sợ người ngay/ Người ngay chẳng sợ đường cày khúc khiu” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 15 10 5) đã đề cao đức tính trung thực của người Việt Nam. Con người muốn sống với nhau có nghĩa, có tình thì trước hết không chỉ phải trung thực, thẳng thắn với nhau, mà còn phải tìm mọi cách để ngăn chặn các biểu hiện của sự giả dối, như “Bịa láo ông Táo bẻ răng”, “Một lời nói dối, sám hối bảy ngày” (Trung tâm Khoa học Xã hội và TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 20 Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 2: 619, 623) nhằm điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong cộng đồng, xã hội. Hay: “Buông tay cày lại quay tay cuốc” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 1: 325); “có làm, có ăn”, “Có khó nhọc mới có lọc có rang” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 2: 134); hay các câu ca dao “Cày đồng đang buổi ban trưa/Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày”, “Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang/ Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu”, “Muốn no thì phải chăm làm/ Một hạt lúa vàng chín giọt mồ hôi” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 15: 659, 676, 1106) nói lên đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó. Bên cạnh đó phê phán thói lười biếng: “Ăn thì ăn miếng ngon, làm thì chọn việc cỏn con mà làm”, “ iàu đâu đến thằng lười” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 2: 130, 136); “ iàu đâu đến kẻ ngủ trưa/ Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 15: 1116). Tiết kiệm để để dành khi ốm đau, cơ nhỡ, khi thiên tai, địch họa là đức tính cần thiết của người Việt Nam “Ăn bữa mai để củ khoai bữa mốt”, “Tiết kiệm sẵn có đồng tiền/ Phòng khi túng nhỡ không phiền lụy ai” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 2: 687, 6 2). Đối lập với tiết kiệm là tính hoang phí. Phê phán thói hoang phí ở con người được nhấn mạnh để nhắc nhở nhau tránh thói hư tật xấu này: “Có đồng nào xào đồng ấy”, “Ít chắt chiu hơn nhiều phung phí”, “Làm một tấc, ăn một thước” (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 2: 689, 691). 4. KẾT LUẬN Tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam là một hình thái ý thức xã hội, được hình thành, phát triển trên cơ sở, nền tảng của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, lịch sử. Ca dao, tục ngữ Việt Nam được xem như là một “bộ bách khoa toàn thư về kiến thức (), tôn giáo, triết học của nhân dân” (Đinh ia Khánh - Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn, 2002: 15) và nó góp phần nâng cao nhận thức, gìn giữ và lưu truyền hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy của con người, trong đó có đạo đức. Các câu nói ngắn gọn, khúc chiết, vần điệu nhưng gần gũi và sâu sắc về mọi phương diện của đời sống không chỉ là những bài học sinh động đối với tất cả mọi người mà còn góp phần to lớn trong giáo dục, điều chỉnh hành vi của con người hướng đến chân - thiện - mỹ. Trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay, những tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam vẫn chứa đựng nhiều giá trị tích cực cần được phát huy trong điều kiện mới. CHÚ THÍCH (1) Lang-sa: Pháp. NGUYỄN QUẾ DIỆU – NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC 21 TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2014. Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014 của Ban chấp hành Trung ương Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2016. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. 3. Đinh ia Khánh (chủ biên) - Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn. 2002. Văn học dân gian Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 4. Hồ Chí Minh. 2011. Toàn tập - tập 6, tập 11. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. 5. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 2000. Giáo trình Đạo đức học. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 6. V.I. Lênin. 1977. Toàn tập - tập 41. Mátxcơva Nxb. Tiến bộ. 7. Nguyễn Lân. 2006. Từ điển từ và ngữ Việt Nam. TPHCM: Nxb. Tổng hợp TPHCM. 8. Nguyễn Như Ý (chủ biên). 1999. Đại từ điển tiếng Việt. Hà Nội Nxb. Văn hóa - Thông tin. 9. Trần Văn iàu. 1 0. Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam. Hà Nội Nxb. Khoa học Xã hội. 10. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia. 2002. Tổng tập văn học dân gian người Việt - tập 1, tập 2, tập 15. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
File đính kèm:
- nhung_chuan_muc_dao_duc_co_ban_cua_nguoi_viet_nam_trong_ca_d.pdf