Ẩn dụ cấu trúc “Con người là vật dụng nhà bếp” trong thành ngữ và ca dao tiếng Việt

TÓM TẮT

Bài viết vận dụng lí thuyết về ẩn dụ cấu trúc của ngôn ngữ học tri nhận để đi sâu khám phá

ẩn dụ CON NGƯỜI LÀ VẬT DỤNG NHÀ BẾP trong thành ngữ và ca dao tiếng Việt; trong đó,

“vật dụng nhà bếp” đóng vai trò là miền nguồn ánh xạ tới miền đích “con người” để hình thành

các ẩn dụ như: ngoại hình của con người là “vật dụng nhà bếp”, tình cảm của con người là “vật

dụng nhà bếp”, hoạt động của con người là “vật dụng nhà bếp”, hoàn cảnh/ địa vị của con người là

“vật dụng nhà bếp”. Rõ ràng, người Việt đã dựa vào kinh nghiệm của mình về “vật dụng nhà bếp”

để ý niệm hóa những phạm trù trừu tượng về con người.

pdf9 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 318 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Ẩn dụ cấu trúc “Con người là vật dụng nhà bếp” trong thành ngữ và ca dao tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
g nhà bếp” trong quá trình sử dụng là cơ sở hình thành nên ẩn dụ cấu trúc 
CON NGƯỜI LÀ VẬT DỤNG NHÀ BẾP trong thành ngữ và ca dao tiếng Việt. 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 17, Số 4 (2020): 575-583 
580 
Ẩn dụ cấu trúc thường có tính tầng bậc khá rõ ràng. Ở đây, từ ẩn dụ bậc cao CON 
NGƯỜI LÀ VẬT DỤNG NHÀ BẾP, chúng tôi xác lập được bốn ẩn dụ cấu trúc bậc dưới là: 
3.1. Ngoại hình của con người là “vật dụng nhà bếp” 
Trong hệ thống ý niệm về con người thì ý niệm về ngoại hình và bộ phận cơ thể con 
người là cụ thể, hữu hình và có nhiều trải nghiệm hơn nên rất hạn chế trong việc cấu trúc 
hóa để hình thành nên các ẩn dụ cấu trúc. Vì thế, mô hình cấu trúc Ngoại hình của con 
người là “vật dụng nhà bếp” có số lượng ẩn dụ không nhiều, chỉ 7/190 cấu trúc ẩn dụ. 
1. Đầu như cối chày máy; 
2. Mắt sắc như dao cau; 
3. Má bánh đúc, mặt mâm xôi; 
4. Trai nuôi vợ đẻ gầy mòn – Gái nuôi chồng ốm béo tròn cối xay; 
5. Tay que rẽ, chân vòng kiềng; 
6. Chân đi vòng kiềng; 
7. Cổ tày cong, mặt tày lệnh. 
Trong khi đó, phần còn lại của hệ thống ý niệm miền “vật dụng nhà bếp” tập trung 
vào việc ánh xạ đến các ý niệm như tâm lí, tình cảm, tính cách, phẩm chất của miền đích 
“con người”. Điều này là hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lí, tư duy, vì với những ý 
niệm cụ thể, có tính trực quan cao, dễ nhận biết sẽ có nhu cầu tái cấu trúc thấp hơn so với 
các ý niệm trừu tượng, có tính trực quan thấp, khó nhận biết. Đồng thời, với tư duy trọng 
tình của người Việt, việc quan tâm tìm hiểu con người về mặt tâm lí, tình cảm, tính cách, 
phẩm chất luôn được chú ý và coi trọng. Do đó, số lượng ánh xạ vào những ý niệm này 
rất phong phú, như: Miệng mật lòng dao; Đàn bà cạn lòng như dĩa; Dù ai nói ngả nói 
nghiêng/ Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân; Ăn ở như bát nước đầy; Tranh quyền cướp 
nước gì đây/ Coi nhau như bát nước đầy là hơn; Trơ như mặt thớt; Khinh khỉnh như 
chĩnh mắm thối; Đủng đỉnh như chĩnh trôi sông 
3.2. Tình cảm của con người là “vật dụng nhà bếp” 
Tình cảm là yếu tố thuộc về tinh thần của con người, đó là những rung động của cảm 
xúc trước một đối tượng nào đó. Với văn hóa trọng tình của người Việt thì yếu tố tình cảm 
luôn được coi trọng và đề cao, đó có thể là những mong ước, lời nhắn gửi hoặc kinh 
nghiệm ứng xử trong cuộc sống về mối giao hòa, thân thiết giữa người với người. Những 
tình cảm này được thể hiện rất phong phú và phức tạp, được gửi gắm trong những “vật 
dụng nhà bếp” – những vật vô cùng thân thiết với con người. Chính vì vậy, ẩn dụ về tình 
cảm xuất hiện phổ biến trong tiếng Việt. Đó có thể là tình cảm yêu thương, gắn bó: Có con 
mà gả chồng gần/ Có bát canh cần nó cũng đem cho; Ăn ở như bát nước đầy; Tranh 
quyền cướp nước gì đây/ Coi nhau như bát nước đầy là hơn. Ở đây bát trở thành vật chứa 
đựng tình cảm của con người dành cho nhau hay với vật dụng khác là mâm thì: Cùng ăn 
một mâm, cùng nằm một chiếu hình thành nên cấu trúc ẩn dụ: TÌNH CẢM LÀ “VẬT 
DỤNG”. Và độc đáo hơn cả là diễn tả tình duyên trai gái, tình nghĩa vợ chồng qua cấu trúc 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Đình Việt 
581 
ẩn dụ bậc dưới TÌNH DUYÊN LÀ “VẬT DỤNG”: Đôi ta là bạn thong dong/ Như đôi đũa 
ngọc nằm trong mâm vàng; Bây giờ chồng thấp vợ cao/ Như đôi đũa lệch so sao cho 
bằng; Người ta như đũa có đôi/ Còn anh đi lẻ về loi một mình; Nồi đồng lại úp vung 
đồng; Nồi tròn vung méo úp sao cho vừa 
3.3. Hoạt động của con người là “vật dụng nhà bếp” 
 “Vật dụng nhà bếp” được tạo ra để phục vụ con người, nó gắn liền với những hoạt 
động cụ thể của con người trong cuộc sống. Chẳng hạn, đôi đũa thường gắn liền với các 
hoạt động như gắp, và, xé, xẻ, dầm, khoắng, trộn, vét Dao gắn liền với các hoạt động 
như cắt, thái, chặt, chém, băm, đâm Và từ những hoạt động quen thuộc này đã tạo ra 
những ấn tượng nhất định trong kinh nghiệm sử dụng của người Việt mà hình thành nên ẩn 
dụ cấu trúc: HOẠT ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI LÀ VẬT DỤNG NHÀ BẾP: Tay dao, tay 
thớt; Vay chày, Làm chày làm cối; Gắp lửa bỏ tay người Ngoài ra, “vật dụng nhà bếp” 
còn được tri nhận qua các hoạt động ăn và nói như: Tay đũa, tay chén; Ăn nên đọi, nói nên 
lời; Ăn không biết trở đầu đũa; Cãi chày, cãi cối; Được cãi chày, thua cãi cối; Nói như 
dao chém đá; Nói như dao chém nước; Nói thì đâm năm chém mười/ Đến buổi tối trời 
không dám ra sân; Lời nói, đọi máu 
3.4. Hoàn cảnh/ địa vị của con người là “vật dụng nhà bếp” 
Vật dụng nhà bếp khá đa dạng trong đời sống cả về giá trị lẫn tình trạng tồn tại Có 
những vật dụng được dùng để nói về hoàn cảnh sống nói chung của con người và cũng có 
những vật dụng miêu tả cụ thể hoàn cảnh riêng của từng con người, từng gia đình. Chẳng 
hạn, những vật dụng có giá trị cao như bát Đại Thanh; đũa ngà, mâm son; mâm đồng, bát 
bít; mâm son, bát đàn; đĩa ngọc, mâm vàng chỉ được dùng trong những gia đình cao 
sang, quyền quý. Vậy nên, khi nhắc đến những vật dụng này, người Việt luôn liên tưởng 
đến hoàn cảnh sống sung túc, đủ đầy Ngược lại, có những vật dụng bình thường, thậm 
chí là tầm thường, bị coi khinh như bát mẻ, bát ngô, bát đá thường được dùng trong các 
gia đình nghèo hèn, khốn khổ, thiếu thốn, lao động vất vả (Trong tiếng Anh, có một số 
ẩn dụ chỉ hoàn cảnh, địa vị con người cũng sử dụng các vật dụng nhà bếp như: to be born 
with a silver spoon in one's mouth (sinh ra ngậm thìa bạc trong miệng) – Sinh trưởng 
trong một gia đình sung túc, sướng từ trong trứng sướng ra, chỉ người có xuất thân từ gia 
đình quyền quý; to sit above the salt (ngồi phía trên lọ muối) – người trong cùng gia đình 
ngồi với nhau, ngang nhau về mặt đẳng cấp, địa vị; to sit below the salt (ngồi phía dưới lọ 
muối) – ngồi cùng người hầu, có địa vị thấp, hèn kém). Như vậy, việc sử dụng hoặc sở 
hữu những vật dụng nhà bếp khác nhau cũng có thể đánh giá được hoàn cảnh của mỗi con 
người, mỗi gia đình là giàu sang hay nghèo hèn, nhàn hạ hay cực khổ; địa vị cao hay 
thấp Từ cơ sở đó, hình thành nên ẩn dụ Hoàn cảnh/ địa vị là “vật dụng nhà bếp” trong 
một số biểu thức ngôn ngữ như: Ăn bát Đại Thanh, nằm chiếu miến; Ăn bát mẻ, nằm 
chiếu manh; Cơm ba bát, áo ba manh; Ngồi mát ăn bát vàng; Ngồi mát ăn bát đầy, lầy 
cày không đầy bát; Yêu nhau bốc bải giần sàng/ Ghét nhau đĩa ngọc mâm vàng chớ thây; 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 17, Số 4 (2020): 575-583 
582 
Đũa mốc chòi mâm son; Cơm bạc, đũa ngà; Mâm đồng, bát bít; Mâm son, bát đàn; Chó 
chui gầm chạn; Ăn xó bếp, chết gầm chạn 
Văn hóa Việt luôn quan tâm đến nhà bếp, đặc biệt là trong xây dựng nhà cửa cũng 
như trong phong thủy của ngôi nhà. Nhà bếp và các hoạt động trong nhà bếp luôn được 
xem là quan trọng nhất vì nơi đây được xem là nơi “giữ lửa” cho ngôi nhà, cũng là nơi 
những người phụ nữ – người quán xuyến mọi việc của gia đình Việt thực hiện công việc 
“giữ lửa” của mình, như dân gian từng nói: Đàn ông quản nhà, đàn bà quản bếp hay Vắng 
đàn ông quạnh nhà, vắng đàn bà quạnh bếp. Vì vậy, các “vật dụng nhà bếp” trở nên thân 
thuộc, gần gũi và dễ dàng đi vào trong tâm thức của người Việt để rồi từ đó hình thành nên 
hàng loạt các biểu thức ẩn dụ cấu trúc như đã trình bày ở trên. 
4. Kết luận 
Việc mô tả và phân tích ẩn dụ cấu trúc CON NGƯỜI LÀ VẬT DỤNG NHÀ BẾP 
trong thành ngữ và ca dao tiếng Việt đã mang lại nhiều ý nghĩa: cho thấy miền ý niệm “vật 
dụng nhà bếp” thực sự tồn tại sâu đậm trong tư duy, tâm thức của người Việt; hệ thống ẩn 
dụ cấu trúc như đã trình bày góp phần minh họa thêm cho lí thuyết về ẩn dụ cấu trúc của 
Ngôn ngữ học tri nhận; ẩn dụ CON NGƯỜI LÀ VẬT DỤNG NHÀ BẾP có tính tầng bậc 
một cách rõ ràng, đóng vai trò là cấu trúc ẩn dụ bậc trên bao hàm các cấu trúc ẩn dụ bậc 
dưới: Ngoại hình của con người là “vật dụng nhà bếp”, Tình cảm của con người là “vật 
dụng nhà bếp”, Hoạt động của con người là “vật dụng nhà bếp”, Hoàn cảnh/ địa vị của 
con người là “vật dụng nhà bếp”. Không chỉ vậy, những kinh nghiệm về “vật dụng nhà 
bếp” được thể hiện trong các biểu thức ẩn dụ còn cho thấy sự thú vị, độc đáo trong tư duy, 
ngôn ngữ và văn hóa của người Việt. 
 Tuyên bố về quyền lợi: Tác giả xác nhận hoàn toàn không có xung đột về quyền lợi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Do, T. K. L. (2015). Vietnamese idioms and proverbs dictionary in use [Tu dien thanh ngu, tuc ngu 
Viet Nam trong hanh chuc]. Hanoi: Social Sciences Publishing House. 
Hoang, P. (2016). Vietnamese Dictionary [Tu dien tieng Viet]. Hanoi: Hong Duc Publishing House. 
Lakoff, J., & Johnson, M. (1980). Metaphors we Live by. Chicago: University of Chicago Press. 
Nguyen, L., & Luong, V. D. (1993). Idioms in Vietnamese [Thanh ngu tieng Viet]. Hanoi: Social 
Sciences Publishing House. 
Nguyen, N. Y. (1995). Dictionary of Vietnamese idioms [Tu dien giai thich thanh ngu tieng Viet] . 
Hanoi: Education Publishing House. 
Vu, N. P. (2004). Proverbs, folk songs, folk Vietnam [Tuc ngu, ca dao, dan ca Viet Nam]. Hanoi: 
Literature Publishing House. 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Đình Việt 
583 
STRUCTURAL METAPHORS “HUMAN BEINGS ARE KITCHEN UTENSILS” 
 IN VIETNAMESE FOLK SONGS AND IDIOMS 
Nguyen Dinh Viet 
University of Social Sciences and Humanities, Vietnam National University Ho Chi Minh City, Vietnam 
Corresponding author: Nguyen Dinh Viet – Email: viet.guitarlead@gmail.com 
Received: March 03, 2020; Revised: March 27, 2020; Accepted: April 16, 2020 
ABSTRACT 
 The article applies the theory of structural metaphor of Cognitive Linguistics to explore 
structural metaphors HUMAN BEINGS ARE KITCHEN UTENSILS in Vietnamese idioms and folk 
songs. In particular, "kitchen utensils" serve as source domains mapped to target domain "human 
beings" to form the structural metaphors. Some examples are human appearance, emotions, 
activities, and human circumstances/status are "kitchen utensils". It is clear that Vietnamese 
people rely on their experiences of "kitchen utensils" to conceptualize abstract categories of 
human. 
Keywords: structural metaphor; kitchen utensils; source domain; target domain 

File đính kèm:

  • pdfan_du_cau_truc_con_nguoi_la_vat_dung_nha_bep_trong_thanh_ngu.pdf