Lịch sự giao tiếp trong dân ca quan họ
TÓM TẮT
Dân ca quan họ là một trong những làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng đồng bằng Bắc bộ (Việt
Nam) với hình thức đối đáp diễn xướng điển hình. Bài viết đã sử dụng phương pháp nghiên cứu
định tính (thu thập, phân tích tư liệu; phân loại, miêu tả các kiểu lịch sự, phương thức thể hiện lịch
sự trong dân ca quan họ). Lịch sự giao tiếp trong dân ca quan họ được thể hiện trên hai phương
diện: lịch sự quy ước và lịch sự chiến lược. Các loại lịch sự này được thể hiện bằng các phương
thức: phương thức thể hiện lịch sự chiến lược (dùng từ ngữ xưng hô, dùng các từ ngữ tình thái,
lịch sự trong sự vận động chiến lược giao tiếp gắn liền với các hành vi ngôn ngữ, lịch sự trong
những lời rào đón, đưa đẩy); phương thức thể hiện lịch sự quy ước (lịch sự trong văn hóa ứng xử
có tính quy thức xã hội). Nghiên cứu lịch sự giao tiếp trong dân ca quan họ đã cho thấy đặc điểm
văn hóa ứng xử của con người Kinh Bắc: ưa sự nhẹ nhàng, tế nhị trong giao tiếp.
trong giao tiếp giữa các liền anh, liền chị. Đồng thời, nó còn tạo ra sự xa cách, nhiệt thành nhưng không vồn vã, mà rất thanh nhã: đường đấy ạ [4, tr. 7]. 3.1.3. Lịch sự trong sự vận động chiến lược giao tiếp gắn liền với các hành vi ngôn ngữ Quy tắc khiêm - tôn không chỉ thể hiện trong cách xưng hô mà còn thấy ngay trong cách ứng xử gắn liền với các hành vi ngôn ngữ. Đó vừa là chiến lược giao tiếp mềm dẻo linh hoạt của các nhân vật giao tiếp (cụ thể là các liền anh, liền chị) vừa là quy tắc ứng xử của xã hội Việt Nam. Trước hết, khen là hành vi ngôn ngữ có tác dụng làm tăng thể diện của người nghe. Tuy nhiên, có những trường hợp, hình thức của phát ngôn là lời khen nhưng lại làm đe dọa thể diện của người nghe nếu thiếu đi điều kiện chân thành. Tuy nhiên, xét trong các bài dân ca quan họ, không có trường hợp nào như vậy. Trong các bài hát dân ca quan họ, sử dụng hành vi khen là một chiến lược tạo ra tính lịch sự cho phát ngôn. Hành vi khen được tạo ra bằng cách sử dụng các tính từ chỉ tính chất, phẩm chất tích cực (Người ngoan tôi hỏi nhời này có nên [3, tr. 21]. Bên cạnh đó, nhiều hơn là phương thức khen gián tiếp bởi cấu trúc so sánh với đặc điểm của yếu tố so sánh mang tính chất, phẩm chất tích cực (Anh Hai, anh Ba nói mà như sấm bên Đông, chớp động bên Tây, mưa tỉnh Hà Nội mà đây ướt đường đấy ạ [2]), Chị Hai đứng đấy miệng cười như hoa/ Mây tuôn suối tóc tuyết nhường màu da [3, tr. 53]. Quy tắc lịch sự không chỉ là sử dụng những hành vi làm tăng thể diện của người nghe mà còn làm giảm thiểu mức độ đe dọa thể diện. Trách là hành vi ngôn ngữ có mức độ đe dọa đến thể diện dương tính của người nghe. Trong dân ca quan họ, ta thường gặp lối trách rất duyên như sau: Anh rằng Năm ơi chứ mấy em ngồi rồi trách là phận i má ơ má a đào... [2], tơ hồng là tơ hồng đa đoan... trách ông Thiên... đưa đẩy là đưa đẩy cái tơ hồng... Người là người ngoan sao mà khéo i i la ơi hư ơi hừ là hời hư la hới hời hư phụ lòng là phụ lòng với nhau... chốn sông sâu sao đưa đẩy đưa đẩy cái tơ ơ hồng...” [4, tr. 11]. Chuyện tình dang dở, không đến được với nhau, thay vì trách người lại là trách tơ hồng, ông Thiên, phận má đào. Ở đây, ta thấy quan điểm triết lý đạo Phật về duyên phận được lấy làm cái cớ rất duyên đã tránh được sự tổn hại thể diện dương tính và giảm bớt sự tổn thất thể diện âm tính cả người nói và người nghe. Duyên tình lỡ làng, nhân vật trữ tình nhiều khi không trách mà chỉ than (phận em là phận trái duyên, duyên em nhỡ...). Nhân vật trữ tình đã mượn chữ “duyên” gắn với thuyết duyên khởi, duyên sinh, nhân duyên của triết lý Phật giáo. Không phải do tại anh, ko phải tại em... Từ đó, lời than đã giảm đáng kể mức độ tổn hại thể diện của người than mà cũng không làm ảnh hưởng đến thể diện của đối phương. Vẫn giãi bày được tâm sự thở than nhưng không hề bi lụy. Dân ca quan họ là các câu hát giao duyên. Nói đến dân ca quan họ không thể không nói đến hành vi tỏ tình. Hành vi tỏ tình được gợi đến từ những cái cớ rất duyên, rất ý tứ; được dẫn dắt từ sự việc này, đến sự việc khác một cách tự nhiên (Bạn tình ơi... duyên tình cách mấy con sông nên tôi phải lụy đò. Bởi chưng trời tối nên tôi phải lụy cô bán hàng trống Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 103 - 108 Email: jst@tnu.edu.vn 107 cơm. Khen ai là khen khéo vỗ,... khéo gảy... nên tôi trót say huê... nên tôi phải đi tìm huê Xin quan họ đừng quản ngại chúng chê bạn cười là tôi nói ra... [4, tr. 20]. Như vậy, hành vi tỏ tình được thực hiện bằng cách nói vòng, rào đón đưa đẩy. Đây là chiến lược làm tăng thể diện dương tính của người nghe (được yêu thích) và giảm mức độ đe dọa thể diện dương tính của người nói (phòng ngừa trường hợp bị cười chê)... Ngoài việc tỏ tình bằng hành vi ngôn ngữ trực tiếp, hành vi ngôn ngữ gián tiếp cũng là một phương thức được sử dụng thể hiện lịch sự chiến lược (Khách đến í đến chơi hự hừ nhà là chơi hự hừ nhà/ Đốt than ớ ơ dậu mà quạt i nước mấy pha trà mời người xơi i là chén có a trà này, quý i vậy í ơ ớ ở o sông i cạn í ơ đất liền Gần chùa là chùa chả i bén mấy duyên hương í i chút nào là sáng có ả trăng xuống, sáng i cả í ơ ớ ở o sáng i cả í ơ vườn đào [2]). Trong chuyện tình cảm, các nhân vật khẳng định tình cảm dành cho nhau một cách gián tiếp bởi các hình ảnh có tính chất biểu trưng qua hành vi kể, trần thuật (Lên thác i i là em lại a bên nay a xuống ghềnh... em có quản bao nhọc nhằn [4, tr. 8]). Đây là hành vi tôn vinh thể diện dương tính đối với người nghe. Người nghe được đề cao vì nhân vật trữ tình em đã không quản ngại khó khăn, gian khổ để có được “tình yêu”. Đồng thời, thể diện của nhân vật trữ tình cũng được tăng lên (khẳng định ý chí và mong muốn được thừa nhận, thấu hiểu). 3.1.4. Lịch sự trong những lời rào đón, đưa đẩy Song song với việc sử dụng các hành vi ngôn ngữ, để giảm thiểu sự đe dọa thể diện, cần thiết phải sử dụng các phương thức lịch sự. Trong đó có những lời rào đón, đưa đẩy. Đó là những lời nói tỏ tình trực tiếp nhưng lại được đưa đẩy, rào đón bằng những lời lẽ “phòng thủ”: nào đâu dám, thực đâu có dám dỗ dành..., tiện đây, xin Quan họ đừng quản ngại chúng chê ấy chê bạn cười là tôi nói ra[2]. Ngoài ra, việc sử dụng lối nói vòng dựa trên các trường liên tưởng (dùng cái cớ để nói xa, nói gần) cũng là một cách nói đưa đẩy (Gấm đây là đôi tay i vừa thêu là thêu em vừa dệt gấm hoa đôi em dệt ơ đôi ba người ... Em thêu này chăn loan tay em cùng là thêu như gối phượng cùng màn chăn... đưa về tới bạn tri âm...tìm không là không thấy bạn ơ đôi ba người ơi ấy trên con đường trên đường luốn những ngẩn ngơ ... nhớ ai nay em chờ là mai như em đợi... [4, tr. 74]. Bên cạnh đó, sự rào đón còn thể hiện ở việc sử dụng lập luận dự báo về kết quả... để thuyết phục: Người về tính toán làm chi/ Yêu nhau trò chuyện vân vi/ Kẻo mai khiếm khuyết điều gì lại bảo tại tôi/ Người về tính toán làm chi/ Yêu nhau người quyết ngay đi/ Kẻo mai tiếng bấc tiếng chì lại bảo tại tôi/ Người về tính toán làm chi/ Yêu nhau sớm quyết duyên đi/ Kẻo mai quá lứa đỗi thì lại bảo tại tôi [3, tr. 102]. 3.2. Lịch sự quy ước Lịch sự quy ước là loại lịch sự được thực hiện dựa trên những lễ nghĩa, phong tục, văn hóa ứng xử có tính quy thức xã hội. Người Việt Nam có câu: Miếng trầu là đầu câu chuyện. Miếng trầu trong tâm thức người Việt Nam là biểu tượng của tình cảm chân thành, sâu sắc. Vậy nên, người quan họ đã thể hiện sự hiếu khách bằng những câu hát mời trầu: Gặp đây ăn một miếng trầu. Không ăn cầm lấy, không ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng. Miếng trầu không chỉ là đầu câu chuyện, mà còn gợi ra nét ý tứ về một câu chuyện khác- câu chuyện “chung một nhà”: Trầu này trầu tính trầu tình. Trầu này trầu tính trầu tình. Ăn vào cho đỏ, ăn vào cho đỏ môi mình môi ta Anh còn son. Em còn son. Ước gì ta được làm con một nhà [2]. Cơ sở của sự liên tưởng từ chuyện mời trầu gợi chuyện “một nhà” là bởi văn hóa “nghĩa cau trầu” (miếng cau, lá trầu là vật đính ước hôn lễ theo phong tục cưới xin người Việt). Cùng với mời trầu, người quan họ còn thể hiện lòng hiếu khách của mình bằng hành động mời trà: Khách đến í đến chơi hự hừ nhà là chơi hự hừ nhà/ Đốt than ớ ơ dậu mà quạt i nước mấy pha trà mời người xơi i là chén có a Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 103 - 108 Email: jst@tnu.edu.vn 108 trà này, quý i vậy í ơ ớ ở o sông i cạn í ơ đất liền [2]. Ngoài sự lịch sự được thể hiện bằng văn hóa hiếu khách “mời nước, mời trầu” thì lịch sự quy ước còn được thấy trong lời ăn ý ở, tập tục nói năng, đi đứng,... Đó là những giá trị văn hóa truyền thống rất cốt lõi trong cách ứng xử của người Việt “người nói phải có người nghe”: Anh rằng Tư ơi chứ em lắng tai nghe lời anh Tư nói i ai ơi bên hữu a tình là anh rằng Tư ơi chứ em lắng tai nghe lời anh Tư nói i ai ơi ...[4, tr. 26]. Đó là sự lễ phép trong cách ứng xử với mẹ cha: Anh về thưa với mẹ cha. Em về thưa với mẹ cha [2]. Ngoài ra, tình nghĩa thủy chung son sắt luôn được đề cao và là một thước đo trong giao tiếp quan họ. Chính vì vậy, chúng ta gặp rất nhiều lời hát ân tình: Anh biết rồi nên vì người giữ lời hứa rằng năm xưa ơ chúng mình, yêu i ơ nhau là trước sau tình đừng phai dù rằng ai xin chớ đứng ngồi [2]/ Đừng làm rồng ngược mây xuôi. Nhớ khi hò hẹn, nhớ lời thủy chung [5, tr. 403] 4. Kết luận Ca hát quan họ là một hình thức sinh hoạt văn hóa độc đáo của người dân vùng Kinh Bắc xưa- Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay. Đó là một tổng thể những giá trị văn hóa, văn nghệ dân gian hợp thành, là kiệt tác sáng tạo truyền miệng của nhân dân qua nhiều thế hệ. Qua các làn điệu dân ca, chúng ta thấy được những nét văn hóa coi trọng “lễ nghĩa” và cách ứng xử ý nhị, mềm mại, khéo léo của người dân Kinh Bắc. Bài viết tập trung miêu tả các phương thức thể hiện phép lịch sự trong giao tiếp qua các làn điệu dân ca quan họ. Nhìn chung, có thể nhận thấy rằng lịch sự chiến lược (mang tính chất cá thể hóa gắn liền với tình huống giao tiếp) trong dân ca quan họ luôn chịu ảnh hưởng của phông văn hóa vùng đất kinh Bắc. Chính vì thế; quan niệm, hành động của cá nhân cũng là những chuẩn mực ứng xử chung của cộng đồng. Điều này có thể lý giải bởi dân ca quan họ là những sáng tác tập thể có tính diễn xướng của quần chúng nhân dân. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán, Đại cương ngôn ngữ học (Tập 2), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996. [2]. Web: https://quanhobacninh.vn/, truy cập ngày 20 tháng 03 năm 2019. [3]. Trung tâm văn hóa Tỉnh Bắc Giang, Các bài hát đối quan họ, Bắc Giang, 2010. [4]. Lâm Minh Đức (ký âm và tuyển chọn), Dân ca quan họ Bắc Ninh, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2005. [5]. Trung tâm văn hóa Tỉnh Bắc Giang, Không gian văn hóa quan họ Bắc sông Cầu, Bắc Giang, 2014.
File đính kèm:
- lich_su_giao_tiep_trong_dan_ca_quan_ho.pdf