Hát đúm của người Thổ và vấn đề giữ gìn, bảo tồn trong bối cảnh hiện nay

Tóm tắt: Hát đúm là sinh hoạt văn hóa gắn bó mật thiết với đời sống cộng đồng

ng−ời Thổ, còn đ−ợc gọi là hát em ôi. Về bản chất, giống nhiều loại hình âm nhạc

dân gian khác, hát đúm cũng là một hình thức giao duyên nam nữ. Trong truyền

thống, hát đúm phổ biến rộng rãi ở các xã thuộc huyện Nh− Xuân, Thanh Hóa - nơi

có nhiều ng−ời Thổ sinh sống và cũng là nơi giao thoa mạnh mẽ của văn hóa Việt -

Thái - M−ờng, đây cũng là địa bàn chúng tôi thực hiện nghiên cứu và phản ánh

trong bài viết. Nội dung bài viết góp phần làm rõ nguồn gốc cũng nh− vị trí của hát

đúm trong chuỗi các sinh hoạt đời sống của ng−ời Thổ. Không gian diễn x−ớng của

hát đúm và những giá trị nghệ thuật của nó cũng đ−ợc thể hiện rõ thông qua lăng

kính cộng đồng. Qua đó, chúng tôi có một số đánh giá chung về hiện trạng hát đúm

của ng−ời Thổ (xã Yên Lễ) hiện nay và đ−a ra một số đề xuất góp phần bảo tồn loại

hình văn hóa truyền thống này.

 

pdf6 trang | Chuyên mục: Nghệ Thuật Biểu Diễn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 321 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Hát đúm của người Thổ và vấn đề giữ gìn, bảo tồn trong bối cảnh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
i bạn hát của mình. 
(*) Quả đúm đ−ợc ng−ời con gái may tr−ớc Tết, nó 
đ−ợc gói trong một tấm vải nhỏ hình vuông, mỗi 
cạnh dài khoảng 10cm. Bên trong quả đúm đ−ợc 
nhồi cát và cám xay để khi ném vừa nhẹ lại 
không bị gió cản. Sợi dây nối với giữa quả đúm 
đ−ợc làm bằng dây gai hoặc sợi bông dài khoảng 
1m, đ−ợc khâu thêm các mảnh vải xanh, đỏ, vàng 
cho sặc sỡ. 
Hát đúm của ng−ời Thổ 45 
Th−ờng thì cả tốp nam, nữ cùng 
chứng kiến các “đại diện” của “bên 
mình” hát đối với ng−ời “bên kia”, và 
vừa hát vừa tung quả đúm về phía đối 
ph−ơng. Khi vào cuộc hát, bao giờ câu 
hát (khổ thơ) chúc tết cũng là lời hát 
khởi đầu. Lần l−ợt từng ng−ời trong hai 
nhóm nam nữ có thể hát những câu 
chào mừng để làm quen, nh−ng ng−ời 
hát sau không đ−ợc hát trùng với lời ca 
của ng−ời hát tr−ớc. Bài bản lời ca 
d−ờng nh− có sẵn, thể thơ đ−ợc dùng để 
sáng tạo vào lời hát là thể song thất lục 
bát hoặc thể lục bát, một số bạn hát giỏi 
ứng đối có thể “sáng tác” thêm, cứ nh− 
thế một số bài bản đ−ợc bổ sung thêm 
lời thơ (hát) theo thời gian. Hoặc, qua 
những cuộc hát hàng năm giữa các làng 
với nhau, các cá nhân tự làm phong phú 
thêm lời ca của mình và truyền dạy cho 
các bạn cùng nhóm. 
Những cuộc hát đúm diễn ra trong 
không gian của ngày tết và đ−ợc tổ chức 
ở các sân bãi của chùa, đình trong xã 
Yên Lễ. Khi ấy làn điệu của nó cũng 
chậm rãi để phù hợp với tâm trạng cũng 
nh− không khí của cuộc giao duyên. 
Trong hát đúm ở Yên Lễ còn có một 
hình thức riêng là hát trống chiêng. Đây 
là một hình thức đ−ợc tổ chức trong 
đình, vào lễ cầu phúc và chỉ những đôi 
trai gái tài năng nhất mới đ−ợc thể 
hiện. Trong các ngày hội đình Thi, đình 
Thấng trong xã, làng xóm sẽ cử ra vài 
đôi trai gái để thể hiện các bài hát đúm 
tr−ớc sự chứng kiến của dân làng, quan 
lại. Khi ấy, nam đứng một bên đánh 
trống, nữ đứng đối diện gõ 4 chiếc 
chiêng với các âm thanh khác nhau. 
Trong cuộc hát, nam sẽ đánh trống và 
nữ đánh chiêng để tạo ra một âm thanh 
với nhịp điệu nhanh hơn hát đúm ngày 
th−ờng, và họ chỉ đ−ợc hát những bài 
hát chúc tụng, ca ngợi quê h−ơng, làng 
xã. ở đây hát trống chiêng mang tính 
chất của một hình thức hát thờ, hát cửa 
đình mà chúng ta vẫn th−ờng thấy ở 
quan họ, hát xoan hoặc chầu văn. 
* Ca từ trong hát đúm 
Là một loại hình dân ca gắn bó lâu 
đời với ng−ời Thổ, hát đúm đã trải qua 
nhiều giai đoạn phát triển và chịu ảnh 
h−ởng sâu sắc của văn học Việt Nam. 
Những lời ca trong hát đúm đã vận 
dụng tài tình những câu thơ lục bát, thơ 
bảy chữ, song thất lục bát để làm cảm 
hứng sáng tạo. Trong thời kỳ hình 
thành và phát triển, lời ca trong hát 
đúm chỉ là sự ứng vận những cặp từ, 
vốn từ đã có sẵn trong lời ăn tiếng nói 
hàng ngày, cộng với t− duy liên t−ởng 
phong phú (Nguyễn Văn Huyên, 2002, 
tr.119). Về sau, với sự phát triển mạnh 
mẽ của nền văn học thế kỷ XV, thơ ca 
đạt ở trình độ đỉnh cao thì những lời ca 
trong hát đúm lại có một b−ớc chuyển 
mình mới. Những ng−ời đi hát đúm ai 
cũng biết vài câu, đến vài trăm câu thơ 
nổi tiếng trong Chinh phụ ngâm, truyện 
Kiều, Nhị Độ Mai,... để làm vốn từ khi 
hát. Tuy nhiên, đôi khi họ cũng có sự 
“tam sao thất bản” trong bài hát của 
mình, cũng có khi họ giữ nguyên những 
bài thơ đó để hát, miễn sao phù hợp với 
bối cảnh và có thể ứng đáp đ−ợc. 
* Giá trị nhân văn của hát đúm 
Tr−ớc đây ở cộng đồng ng−ời Thổ xã 
Yên Lễ, hát đúm là một loại hình dân 
ca, một sân chơi dành cho nhiều ng−ời. 
Bởi tính dân dã trong lời ca, làn điệu thì 
chỉ có một, nên trong khắp xóm làng ai 
cũng biết hát, không ít thì nhiều. Ng−ời 
có chất giọng tốt thì chú tâm luyện tập 
nhiều bài hát, còn ng−ời không có giọng 
thì cũng cố gắng biết vài câu để đôi khi 
ngồi hát. Trong ngày hội làng, xung 
46 Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2015 
quanh những đám hát là những ng−ời 
theo dõi, phần nhiều là phụ nữ, đàn ông 
đã nhiều tuổi hoặc những chàng trai cô 
gái mới lớn. Họ đứng xung quanh những 
đám hát và có nhiệm vụ nhắc lời, gợi ý 
cho ng−ời đang thi tài bên trong, và 
đ−ợc gọi là những “ng−ời xui hát”. Tất 
nhiên họ cũng là một thành phần tham 
gia để làm cho đám hát vui hơn, kéo dài 
đ−ợc lâu hơn. Nhìn ở góc độ này, có thể 
thấy hát đúm là một nét sinh hoạt của 
cả cộng đồng, ng−ời ta không chỉ hát 
đúm mà còn đi chơi đúm. 
Sau mùa chơi xuân hát đúm, trong 
làng xã lại có những lời đồn thổi rằng có 
đôi yêu nhau, có đám chuẩn bị ăn hỏi... 
Các chàng trai cô gái truyền tai nhau 
với sự khâm phục, ng−ỡng mộ, đặc biệt 
là những chàng trai cô gái mới lớn. Đi 
hát đúm và chơi hội xuân là cơ hội để họ 
đi tìm tình yêu cho mình, nó nh− một 
nhu cầu trong đời sống văn hóa của 
ng−ời Thổ nơi đây. Nội dung trong các 
cuộc hát th−ờng xoay quanh chủ đề tình 
yêu, vợ chồng. Khi các chàng trai cô gái 
hát với nhau với những lời ca yêu 
th−ơng, bay bổng, ng−ời ngoài nghe sẽ 
nghĩ họ là một cặp đôi thực sự. 
Trong hát quan họ, liền anh, liền 
chị không đ−ợc lấy nhau, thì hát đúm 
lại là cơ hội để những ng−ời hát nên vợ 
nên chồng. Họ hẹn −ớc, thề thốt cùng 
nhau và trao nhau những vật phẩm làm 
tin. Đôi khi đó là cái khăn mùi xoa mà 
chàng trai đã chuẩn bị tr−ớc khi đi hội, 
cũng có khi là cái nón của cô gái, hay 
những miếng trầu mà cả hai đã chuẩn 
bị sẵn. 
Trong khắp các làng quê của ng−ời 
Thổ tr−ớc đây, hát đúm là một hình 
thức dân ca đối đáp giao duyên rất phổ 
biến. Nó th−ờng đ−ợc diễn ra vào mùa 
xuân và mùa thu, khoảng thời gian 
quan trọng của các c− dân làm nông 
nghiệp. Hát đúm ở đây đã v−ợt ra ngoài 
những lời ca bình th−ờng, nó trở thành 
một thứ “âm nhạc của cuộc đời”, một 
sinh hoạt tín ng−ỡng trong đời sống của 
ng−ời Thổ ở Yên Lễ. 
2. Một số đánh giá và đề xuất 
Hiện nay, trong đời sống ng−ời Thổ 
ở Yên Lễ, hát đúm đã bị mai một và chỉ 
còn ở thế hệ ng−ời cao tuổi, trung niên. 
Trải qua chiến tranh và những thay đổi 
mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - văn 
hóa - xã hội của địa ph−ơng, hát đúm bị 
coi là không còn phù hợp với nhịp sống 
đ−ơng đại và đang đứng tr−ớc nhiều 
thách thức, nhất là khi không gian diễn 
x−ớng của nó nh− ở đình, chùa... cũng 
không còn nhiều. Hiện nay, vào các dịp 
lễ hội diễn ra tại đình Thi hoặc vào dịp 
Tết Nguyên Đán, chính quyền xã Yên 
Lễ cũng vận động các thành viên tích 
cực tham gia biểu diễn hát trống chiêng 
để tô điểm cho phong trào văn nghệ. 
Tuy nhiên, trong nhận thức của nhiều 
ng−ời Thổ, hình thức hát trống chiêng 
chỉ còn là một nghi lễ nhằm khai mạc lễ 
hội cũng nh− bắt đầu ngày tết. Những 
lời ca của hát đúm cũng chỉ đ−ợc một số 
phụ nữ cao tuổi ghi chép một cách 
không hệ thống và ít đ−ợc truyền bá tới 
cộng đồng. Thanh niên ở Yên Lễ rất tự 
hào về truyền thống văn hóa của mình, 
trong đó có truyền thống hát đúm, hát 
trống chiêng, nh−ng để hát theo các cụ 
thì họ cảm thấy ng−ợng, lúng túng, và 
cho rằng lời ca cổ, lạc hậu, khó hiểu. Với 
nhận thức nh− vậy, thanh niên rất khó 
thuộc những lời ca cổ đó và càng ngày 
họ càng rời xa văn hóa truyền thống của 
mình. Điều này đang là một thách thức 
lớn đối với công tác bảo tồn, phát huy 
loại hình dân ca này trong đời sống 
ng−ời Thổ. 
Hát đúm của ng−ời Thổ 47 
Trong cộng đồng ng−ời Thổ ở Yên Lễ 
hiện nay, vẫn còn nhiều ng−ời nhớ và 
thuộc các bài bản hát đúm, nh−ng hầu 
hết họ đều đã trên 60 tuổi. Những làn 
điệu hát đúm họ còn l−u giữ ch−a đ−ợc 
s−u tầm đầy đủ và đang có nguy cơ mất 
dần. Bởi vậy việc s−u tầm bài bản 
những lời ca của hát đúm ở Yên Lễ là 
một việc làm cấp thiết mà các cấp chính 
quyền, cơ quan nghiên cứu cần quan 
tâm hơn nữa. 
Hiện nay, một số công trình viết về 
ng−ời Thổ ở Nh− Xuân cũng có đề cập 
đến hát đúm, nh−ng xem hát đúm chỉ 
đơn thuần là một hình thức hát dân ca. 
Quan niệm này đang làm cản trở quá 
trình nghiên cứu, s−u tầm. Theo chúng 
tôi, có thể khẳng định, hát đúm không 
đơn thuần chỉ là hát, mà bên trong nó là 
cả một hệ thống nghi lễ, sinh hoạt, luật 
tục văn hóa gắn với đời sống của ng−ời 
Thổ. Chỉ khi nhìn nhận nh− vậy thì việc 
nghiên cứu sẽ hấp dẫn hơn và thu hút 
đ−ợc các nhà nghiên cứu từ nhiều lĩnh 
vực khác nhau. 
Hát đúm là một hình thức sinh hoạt 
văn hóa gắn với cộng đồng ng−ời Thổ ở 
Yên Lễ trong truyền thống. Muốn bảo 
tồn và phát huy hát đúm trong bối cảnh 
hiện nay, ngoài việc đ−a nó vào các lễ 
hội, các ch−ơng trình biểu diễn văn 
nghệ thì cần xây dựng mô hình hát đúm 
gắn liền với đời sống cộng đồng. ở đó 
hát đúm mới có thể trở thành hình thức 
sinh hoạt văn hóa th−ờng nhật của 
ng−ời dân trong các buổi biểu diễn văn 
nghệ, trong các buổi hội họp làng xóm,... 
Chính quyền địa ph−ơng cũng cần 
khuyến khích các buổi sinh hoạt hát 
đúm với các lời hát cổ còn phù hợp với 
hiện tại. Cần thành lập các câu lạc bộ 
hát đúm tại địa ph−ơng. Tuy nhiên việc 
thành lập câu lạc bộ cũng nên giảm sự 
can thiệp của chính quyền địa ph−ơng 
trong khâu quản lý, tổ chức  
Tài liệu tham khảo 
1. Lê Văn Bé (1977), B−ớc đầu tìm hiểu 
về ng−ời Thổ ở Nh− Xuân, Thanh 
Hóa, Luận án tốt nghiệp đại học, Đại 
học Tổng hợp Hà Nội. 
2. Ban chấp hành Đảng bộ xã Yên Lễ 
(2011), Lịch sử Đảng bộ xã Yên Lễ, 
Nxb. Thanh Hóa, Thanh Hóa. 
3. Nguyễn Đỗ Hiệp (2013), Hát đúm 
của ng−ời Việt ở Bắc bộ, Luận án 
tiến sĩ văn hóa học, Học viện Khoa 
học xã hội. 
4. Nguyễn Văn Huyên (2002), Hát đối 
của thanh niên nam nữ ở Việt Nam, 
Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt 
Nam, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, 
Hà Nội. 
5. Nguyễn Xuân Kính (2006), Thi 
Pháp ca dao, Nxb. Khoa học xã hội, 
Hà Nội. 
6. Phạm Hoàng Mạnh Hà, Trần Thị 
Liên (2012), Đời sống văn hóa các 
dân tộc ở Thanh Hóa, Nxb. Thanh 
Hóa, Thanh Hóa. 
7. Vũ Loan (2001) Hát đúm thủy 
Nguyên - Văn hóa văn nghệ dân gian 
Hải Phòng, Nxb. Hải Phòng, Hải 
Phòng. 
8. Phạm Lê Hòa, Đỗ Lan Ph−ơng 
(2001), “Hát đúm Phả Lễ - Thủy 
Nguyên - Hải Phòng”, Văn hóa nghệ 
thuật (7), tr.46-53. 
9. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo 
(1997), Kho tàng diễn x−ớng dân 
gian Việt Nam, Nxb. Văn hóa Thông 
tin, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfhat_dum_cua_nguoi_tho_va_van_de_giu_gin_bao_ton_trong_boi_ca.pdf