Cấp độ liên kết và trần thuật trong tiểu thuyết của Thuận

TÓM TẮT

Các cấp độ liên kết và trần thuật là những vấn đề cơ bản thuộc về mối quan hệ giao tiếp trong cấu

trúc tiểu thuyết. Một cấu trúc giao tiếp chuẩn mực bao gồm: mối quan hệ giữa tác giả và độc giả;

người kể chuyện và khán giả - người nhận; nhân vật với nhân vật. Tuy nhiên, trên từng trang viết

của Thuận, người đọc không thể khuôn các mối quan hệ giao tiếp vào những “cấu trúc chuẩn mực”

đó. Trong bài viết này, người viết tập trung giới thiệu về các cấp độ liên kết và trần thuật trong tiểu

thuyết của Thuận để tìm ra yếu tố cách tân trong cấu trúc tự sự của nhà văn.

pdf7 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 226 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Cấp độ liên kết và trần thuật trong tiểu thuyết của Thuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
hững lúc chúng ta thấy mất 
đi sự cân bằng, băn khoăn không hiểu đâu 
mới là ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Trong 
cuộc sống bộn bề, sự mất cân bằng nhiều khi 
cũng thật cần thiết. Đó là những giây phút 
chúng ta cần phải nhìn lại mình, nhìn vào hiện 
thực cuộc sống để tự mình điều chỉnh: hãy sống 
như thể ngày mai cả ta và họ không còn nữa. 
Sự vượt cấp trong liên kết trần thuật 
Ở tiểu thuyết của Thuận, các cấp độ liên kết 
không tồn tại riêng rẽ, tách rời, mà luôn có sự 
vượt cấp – tiến tới thiết lập mối quan hệ với 
các cấp liên kết nhỏ hoặc cao hơn. Chúng ta 
có thể thấy rõ sự vượt cấp trong liên kết trần 
thuật qua bảng dưới đây: 
Ở sơ đồ này, tác giả và độc giả thực không 
chỉ thiết lập mối quan hệ với nhau mà còn 
thiết lập mối quan hệ với người kể, người 
nghe chuyện và nhân vật. Điều này thể hiện 
rất rõ qua Chinatown: “Bạn bè mày ở trong 
nước đọc Made in Vietnam đều không hài 
lòng. Con bạn thân nhất của mày gọi điện đến 
khóc lóc, yêu quý gì mà viết về nhau như thế 
(). Ông hàng xóm hầm hầm vào nhà không 
thèm gõ cửa, bảo mày thất nghiệp hay sao mà 
lôi chuyện ông ấy ra kể (). Mày () đừng 
quên mấy cái dấu chấm để độc giả còn được 
xuống hàng nghỉ ngơi, cũng đừng quên mấy 
trang lại làm một chương để độc giả có dịp 
đếm từ một đến mười. Tôi phì cười. Tôi cũng 
không ngờ độc giả yêu cầu cao đến thế” [13]. 
Chiếu ví dụ trên lên sơ đồ sự vượt cấp chúng 
ta có thể thấy: Thuận là tác giả thực của 
Chinatown, Made in Vietnam. “Tôi” (1) - 
người kể chuyện của Chinatown – tác giả của 
Made in Vietnam và I’m yellow. “Tôi” (2) là 
người kể chuyện của I’m yellow. Hắn là bạn 
của “Tôi” (1) – người đọc I’m yellow. “Bạn 
bè trong nước”, “con bạn thân nhất”, “ ông 
hàng xóm” là độc giả của Made in Vietnam. 
Như vậy, chỉ qua một đoạn trích, chúng ta đã 
thấy lớp lang các bậc liên kết đan cài như 
“mạng nhện”. Thuận thể hiện mối quan hệ 
của tác giả thực với người kể chuyện và nhân 
vật “Tôi” (1) - nhân vật của Chinatown; mối 
quan hệ giữa tác giả của Made in Vietnam và 
người đọcMối quan hệ đan cài như trên đã 
phản ánh sự phức tạp trong cấu trúc tự sự của 
Chinatown. Mỗi lần độc giả đọc lại khám phá 
ra những tầng bậc mới, những mối quan hệ 
mới. Chinatown vì thế không đơn giản chỉ là 
câu chuyện về một người phụ nữ bất hạnh mà 
đó còn là câu chuyện văn chương – dấu ấn tác 
giả, hư cấu, hiện thực, tiếp nhận, phản hồi 
1.Tác giả thực---Văn bản trần thuật--- 1’. Độc giả thực
2. Người kể chuyện--Sự kể--2’. Người nghe chuyện
3. Nhân vật --Hành động--3’. Nhân vật 
3 - 3’: Cấp độ hành động – nội văn bản 
2- 2’: Cấp độ sắp xếp hư cấu – nội văn bản 
1- 1’: Cấp độ liên kết không hư cấu – ngoại văn bản 
CÁC CẤP ĐỘ TRẦN THUẬT TRONG 
TIỂU THUYẾT CỦA THUẬN 
Năm tiểu thuyết của Thuận có sự xuất hiện 
của nhiều cấp độ trần thuật: trần thuật bậc 
một, trần thuật bậc hai và bậc ba. 
Trần thuật bậc một 
Trần thuật bậc một là trần thuật không gá lắp 
dưới bất cứ một trần thuật nào. Với tiểu 
thuyết truyền thống, trần thuật này có vai trò 
đặc biệt quan trọng. Nhưng ở Thuận, nó lại 
mất dần vị trí ngự trị. 
Ở Chinatown, trần thuật bậc một kể về một 
người phụ nữ tuổi gần bốn mươi đang bị mắc 
kẹt trên một toa tàu điện. Ở T mất tích, trần 
thuật bậc một kể về sự mất tích của T và 
những gì xảy ra sau đó. Ở Vân Vy, trần thuật 
bậc một kể về cuộc sống nhàm tẻ, buồn chán 
của Vy trong cuộc hôn nhân với người chồng 
Việt kiều tên Vượng và đám tang một nhà văn 
Vũ Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 155 - 161 
 160
đồng tính tên B... Qua khảo sát, chúng tôi 
nhận thấy trần thuật bậc một chủ yếu nói về 
cuộc sống hiện tại của các nhân vật ở Paris. 
Như vậy, trần thuật bậc một trong tiểu thuyết 
của Thuận rất đơn giản. Nó đã đánh mất vai 
trò là bậc trần thuật chính, trở thành cái cớ 
đưa người đọc tiếp cận một tầng bậc trần 
thuật gá lắp bên trong. 
Trần thuật bậc hai và bậc ba 
Nếu các tiểu thuyết gia truyền thống thường 
ưu ái cho trần thuật bậc một thì Thuận lại đưa 
người đọc đến khơi những tầng sâu của văn 
bản, tìm ra cơ chế mở tiềm tàng của chúng 
bằng cách thiết lập những tầng bậc trần thuật 
gá lắp. Sự gá lắp của các bậc trần thuật khác 
được thể hiện rõ nét ở Chinatown. 
Trần thuật bậc một ở Chinatown nói về người 
phụ nữ xưng “Tôi”,bị mắc kẹt trong tàu điện 
ngầm. Toàn bộ trần thuật bậc một chỉ nói cho 
chúng ta những thông tin đó. Điều này chứng 
tỏ ở Chinatown, Thuận đã hạ thấp đến mức 
tối đa vai trò của trần thuật bậc một và thay 
vào đó là sự mở rộng giới hạn, đưa vào trong 
trần thuật gốc những trần thuật gá lắp. Chúng 
ta có thể mô hình hóa các bậc trần thuật trong 
Chinatown qua sơ đồ dưới. 
Sơ đồ trên cho thấy trong Chinatown có sự 
tồn tại của ba bậc trần thuật: bậc một (A) nói 
về hai giờ đồng hồ “Tôi” (1) bị mắc kẹt trong 
tàu điện ngầm; bậc hai (B1) nói về quá khứ 
của “Tôi”; (B2) nói về cuộc hôn nhân giữa 
hắn và Hélène; bậc ba (C) nói về “Tôi” – một 
họa sĩ cùng những ám ảnh trong cuộc sống 
hôn nhân với Loan. Trong ba bậc trần thuật 
trên, trần thuật bậc một (A) là trần thuật gốc; 
trần thuật (B1, B2) được gá vào trong trần 
thuật bậc một (A); trần thuật bậc ba (C) được 
gá vào trong trần thuật bậc hai (B1). 
Trần thuật gá lắp (B1, B2) có tác dụng làm 
cản trở, kìm hãm sự tiếp tục của trần thuật 
gốc (A). Trần thuật gốc (A) vừa bắt đầu đã bị 
cản trở bởi tàu điện ngầm không thể đi tiếp do 
bị nghi ngờ có âm mưu khủng bố. Người đọc 
không biết thêm thông tin gì về chuyến tàu 
điện ngầm đó. 
Nhân vật bị nhốt lại trong một không gian 
hẹp, tù túng mà ở đó, nhân vật bắt đầu thực 
hiện một cuộc vượt thoát bằng tâm tưởng. Sự 
cản trở của trần thuật gốc (A) là cơ sở cho sự 
bắt đầu của trần thuật gá lắp (B1) và (B2). 
Trần thuật (B1) đang tuôn chảy (“Tôi không 
dám viết thư cho Thụy”) thì trần thuật (C) 
bỗng dưng xuất hiện, làm cho trần thuật gốc 
(B1) lại bị cản trở, bị sao nhãng, đột ngột 
Những trần thuật gá lắp (B1, B2, C) làm sao 
nhãng đi mạch tự sự gốc (A) và cung cấp 
thêm thông tin về những sự kiện nằm ngoài 
tiến trình sự kiện gốc. Người đọc nhờ đó nắm 
bắt được trọn vẹn những sự kiện chính trong 
cuộc đời nhân vật, thấu rõ những day dứt, ám 
ảnh và bất hạnh của nhân vật trong quá khứ, 
hiện tại 
Thuận sử dụng khá thành công mô hình trần 
thuật gá lắp, đặc biệt khi để nhân vật chính nữ 
ở trần thuật gốc (B1) bàn về cuốn tiểu thuyết 
mà mình đang viết (C) - ở đó nhân vật chính 
vào vai một người đàn ông và nhân vật chính 
nữ trong trần thuật gốc (B1) trở thành nhân 
vật phụ trong trần thuật gá lắp (C). Trần thuật 
gá lắp (C) tạo môi trường để cho nhân vật 
chính trong trần thuật gốc (B1) phân thân – từ 
đó có cái nhìn sâu vào cái tôi của mình bằng 
cái nhìn của “kẻ khác”. Người đọc đồng thời 
được đi qua hai cuộc trải nghiệm về một cuộc 
đời, đồng thời phát hiện ra được những khát 
khao cháy bỏng, những điều thầm kín ẩn sâu 
nơi góc khuất tâm hồn, khiến nhân vật có thể 
tự bộc bạch trọn vẹn những tâm sự vừa chân 
thành, vừa đau đớn, xót xa. 
 C: Trần thuật bậc ba 
B1: Trần thuật bậc hai 
B2: Trần thuật bậc hai 
A: Trần thuật bậc một 
Vũ Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 155 - 161 
 161
KẾT LUẬN 
Khép lại những trang tiểu thuyết của Thuận, 
ta lại thấy những thông điệp mới được mở ra. 
Đó chính là hướng mở của tiểu thuyết – là sự 
“tràn bờ” mà chúng ta không thể khuôn nó 
vào một cái khung định sẵn. Bằng việc tạo ra 
sự vượt cấp trong các liên kết trần thuật, 
Thuận đã lôi kéo độc giả vào vai trò đồng 
sáng tạo với mình, góp phần tạo ra tính chất 
đối thoại, đa chiều cho tiểu thuyết. Tìm ra và 
khơi dậy sức mạnh của những lớp trần thuật 
tiềm ẩn bên trong trần thuật gốc, Thuận đã 
thành công trong việc thể hiện những góc 
khuất của đời sống đương đại, phơi bày 
những vỉa tâm hồn sâu kín mà không phải ai 
cũng chạm đến được. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Roland Barthes (2003), Nhập môn phân tích 
cấu trúc truyện kể, Tạp chí Văn học nước ngoài, 
số 1 
[2]. Phong Điệp, Thuận: Nghệ thuật viết mới là 
điều tôi quan tâm,  
[3]. Phong Điệp, Thuận: Viết để phá vỡ sự cân 
bằng,  
[4]. Văn Giá, Đề cương bài nói chuyện của nhà 
văn Thuận,  
[5]. Hoàng Cẩm Giang (2007), Cấu trúc thể loại 
tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI, Luận văn 
Thạc sĩ, Đại học KHXH&NV 
[6]. Manfred Jahn (2007), Trần thuật học - Nhập 
môn lý thuyết trần thuật, Nguyễn Thị Như Trang 
dịch, Đại học KHXH&NV. 
[7]. Hà Linh, Thuận: Khi viết tôi không mặc cảm, 
[8]. Lan Ngọc, Thuận: Ngôn ngữ Việt thừa hiện 
đại và tinh tế để sáng tạo, 
[9]. Hoàng Nguyễn, Đôi nét về thi pháp và kết cấu 
tiểu thuyết Chinatown, http:/www.evan.com.vn. 
[10]. Thụ Nhân, Thuận: Tôi rất muốn biết vì sao 
mình được tặng thưởng, 
[11]. Việt Quỳnh, Thuận: càng viết là càng bớt 
bồng bột,  
[12]. Thuận (2003), Made in Vietnam (trích đoạn), 
http:/www.tienve.org. 
[13]. Thuận (2004), Chinatown, Nxb Đà Nẵng, Đà 
Nẵng. 
[14]. Thuận (2005), Paris 11 tháng 8, Nxb Đà 
Nẵng, Đà Nẵng. 
[15]. Thuận (2006), T mất tích, Nxb Hội Nhà văn 
và Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam, 
Hà Nội. 
[16]. Thuận (2008), Vân Vy, Nxb Hội Nhà Văn 
và Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam, 
Hà Nội. 
SUMMARY 
LINK AND NARRATIVE LEVELS IN THUAN’S NOVELS 
Vu Thi Hanh* 
College of Sciences – TNU 
Link and narrative levels are basic problems of communication relationships in the novel structure. 
A standard communication structure include the relationship between authors and readers; 
narrators and audience – receivers; and among characters. However, in each page of Thuan’s 
novels, readers can’t force communication relationships into these standard structures. In this 
paper, the author is going to focus on introducing the link and narrative levels in Thuan’s novels to 
find out the renovated elements in Thuan’s narrative structures. 
Key words: Thuan writer, novels, link level, narrative level, renovated elements 
*
 Tel: 0984 364766, Email: vuhanhk48@gmail.com 

File đính kèm:

  • pdfcap_do_lien_ket_va_tran_thuat_trong_tieu_thuyet_cua_thuan.pdf