Đánh giá các yếu tố lựa chọn ngân hàng thương mại tại TP. Hồ Chí Minh của người cao tuổi
Tóm tắt
Nghiên cứu nhằm nhận dạng các yếu tố khách hàng cao tuổi quan tâm
khi lựa chọn ngân hàng và tìm hiểu những khác biệt trong sự quan tâm
đến các yếu tố giữa các nhóm khách hàng khác nhau. Mô hình nghiên
cứu được phát triển dựa trên cơ sở lí thuyết về ngân hàng, khách hàng
cao tuổi, hành vi người tiêu dùng và các nghiên cứu đi trước về lựa
chọn ngân hàng.
Đánh giá độ tin cậy thang đo qua hệ số Cronbach’s Alpha và phân tích
nhân tố khám phá EFA được thực hiện. Kiểm định Friedman cho thấy
khách hàng cao tuổi quan tâm khác nhau đến các nhân tố, được xếp từ
cao đến thấp gồm: (1) Chất lượng nhân viên; (2) Giá; (3) Uy tín; (4)
Kinh nghiệm; (5) Cơ sở vật chất; (6) Ưu đãi; và (7) Sự tham khảo.
Phân tích biệt số làm rõ thêm sự khác biệt về mức độ quan tâm đến
các yếu tố lựa chọn ngân hàng của các nhóm khách hàng khác nhau
phân theo nhóm tuổi, giới tính, tình trạng làm việc, dịch vụ sử dụng
và thu nhập.
cao và chi phí giao dịch thấp. Đây là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu khi khách hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Mặc dù tại VN, lãi suất được Ngân hàng Nhà nước quản lí về mức trần, nhưng mặt bằng lãi suất giữa các ngân hàng nhìn chung vẫn có sự khác biệt. Ngân hàng cần cân đối giữa chi phí và lợi nhuận để xây dựng chính sách phí dịch vụ và lãi suất hợp lí mà vẫn đảm bảo tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước. Yếu tố uy tín được quan tâm nhiều thứ ba khi khách hàng cao tuổi lựa chọn ngân hàng, những ngân hàng có uy tín và thương hiệu thấp sẽ bị thua thiệt và điều này sẽ đe dọa sự phát triển ổn định bền vững của ngân hàng đó trong tương lai, nếu như các ngân hàng không chú ý đúng mức tới vấn đề này đối với khách hàng của mình. Với những 112 | Hà Nam Khánh Giao & Hà Mình Đạt | 97 - 115 ngân hàng đã hoạt động lâu đời, có uy tín cao càng cần phải tiếp tục giới thiệu và khẳng định vị thế cũng như khả năng phát triển bền vững của ngân hàng nhằm củng cố uy tín và danh tiếng cho ngân hàng. Kinh nghiệm cũng là yếu tố khách hàng khá quan tâm khi lựa chọn ngân hàng. Khách hàng cao tuổi, khi cần tìm kiếm thông tin, trước tiên luôn nghĩ đến kinh nghiệm từ chính bản thân mình, những trải nghiệm nhiều năm mang lại cho họ những kiến thức đa dạng và phong phú nhất. Hiện nay, trong bối cảnh thị trường ngân hàng đang có sự cạnh tranh khốc liệt, việc tạo niềm tin cho khách hàng ngay lần đầu sử dụng đóng vai trò thiết yếu trong việc giữ chân khách hàng và biến khách hàng trở thành khách hàng trung thành; đó là vấn đề sống còn cho bất kì ngân hàng nào hiện nay. Cơ sở vật chất đóng vai trò tương đối khi khách hàng muốn lựa chọn một ngân hàng. Cơ sở vật chất ngân hàng khang trang hấp dẫn là “cái nhìn đầu tiên” khi khách hàng đến giao dịch, tạo ấn tượng tốt cho khách hàng khi tiếp xúc. Không gian giao dịch bên trong ngân hàng tiện nghi giúp tạo sự thoải mái cho khách hàng trong thời gian chờ đợi hay giao dịch. Ngân hàng cần đa dạng hóa và phân bổ hợp lí mạng lưới phân phối nhằm đưa ngân hàng đến với nhiều người dân nhất có thể với khoảng thời gian nhanh nhất, chi phí thấp và chất lượng tốt. Yếu tố ưu đãi nhận được sự quan tâm tương đối thấp của khách hàng cao tuổi. Điều này có thể hiểu được do các chương trình ưu đãi của các ngân hàng hiện nay hoặc chưa cho thấy độ tin cậy cao với khách hàng, hoặc chưa phù hợp với những người cao tuổi. Do đó, hiện nay đối với khách hàng cao tuổi, các ưu đãi của ngân hàng chỉ là một tác nhân bổ sung trong mối quan tâm của họ. Tuy vậy, ngân hàng vẫn cần quan tâm đến yếu tố này, khả năng yếu tố này sẽ chiếm sự quan tâm ngày càng lớn hơn. Yếu tố sự tham khảo ít được khách hàng cao tuổi quan tâm nhất, mặc dù sự tư vấn của những người đã từng sử dụng trước đây là nguồn thông tin tham khảo hữu ích cho họ về các vấn đề liên quan đến sản phẩm và ngân hàng. Điều này có thể lí giải trước hết là do mức độ độc lập và kinh nghiệm của đối tượng này; mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ các phương tiện thông tin, và khả năng thông tin đầy đủ và rõ ràng của các ngân hàng cũng góp phần tạo nguồn tham khảo cần thiết. Kết quả phân tích biệt số cho thấy thêm theo nhóm tuổi thì giữa ba nhóm từ 50 - 59 tuổi, từ 60 - 74 tuổi và từ 75 - 84 tuổi có mức độ quan tâm khác nhau đến các yếu tố chất lượng nhân viên, uy tín và cơ sở vật chất. Các yếu tố giá, sự tham khảo, kinh nghiệm và ưu đãi nhận được sự quan tâm tương tự nhau trong cả 3 nhóm khách hàng. Phát triển Kinh tế 280 (02/2014)| 113 Nếu phân biệt khách hàng theo thu nhập hay dịch vụ sử dụng thì cả 7 yếu tố đều có sự quan tâm tương tự nhau của cả 3 nhóm từ 2 - 5 triệu đồng, từ 5 - 10 triệu đồng và trên 10 triệu đồng và 4 nhóm khách hàng gửi tiền, vay tiền, thẻ và chuyển tiền. Phân biệt theo giới tính, kết quả cho thấy nhóm khách hàng nữ quan tâm đến các yếu tố uy tín và sự tham khảo cao hơn nhóm khách hàng nam khi lựa chọn ngân hàng. Trong khi 5 yếu tố còn lại cả khách hàng nam và nữ đều quan tâm tương tự nhau. Phân tích tình trạng làm việc của khách hàng cho thấy nhóm không còn làm việc quan tâm đến các yếu tố chất lượng nhân viên, uy tín, sự tham khảo và giá cao hơn nhóm đang làm việc khi lựa chọn ngân hàng. Sự quan tâm các yếu tố cơ sở vật chất, kinh nghiệm và ưu đãi tương tự nhau trong cả 2 nhóm khách hàng. Kết quả phân tích biệt số trên đã cho thấy sự khác biệt giữa các khúc thị trường phân theo các tiêu chí khác nhau. Việc lựa chọn một phân đoạn thị trường tập trung là cần thiết nhằm phù hợp với khả năng còn hạn hẹp của ngân hàng, hoặc tập trung vào một phân đoạn chưa có đối thủ cạnh tranh. Chiến lược kinh doanh cần phải tương thích với khúc thị trường mà ngân hàng nhắm đến; tùy theo đặc điểm của từng khúc thị trường mà ngân hàng có định hướng chiến lược đặc thù. Ngân hàng cần chú trọng đến các yếu tố được khúc thị trường đó chú trọng hơn để đạt được hiệu quả cao nhất với khúc thị trường đó. Các ngân hàng cần lưu ý cách tiếp cận người cao tuổi phù hợp là xem họ là nhóm có khả năng kiểm soát nguồn lực để đảm bảo phúc lợi của mình theo một số cách: thứ nhất, bản thân họ có thể tiếp tục hoạt động kinh tế; thứ hai, họ có thể chia sẻ nguồn lực được gộp chung trong hộ gia đình cùng với các thành viên khác và bằng cách đó tạo ra những hình thức tham gia tích cực khác, dưới hình thức làm việc trong nhà, chăm sóc trẻ em và các hoạt động khác mà tuy không được tính là hoạt động “kinh tế” một cách chính thức nhưng lại đóng góp vào phúc lợi của gia đình và có thể làm hậu phương cho hoạt động kinh tế của các thành viên khác trong hộ gia đình; thứ ba, họ có thể nhận những khoản thu nhập chuyển giữa các hộ gia đình từ những người thân gia đình sinh sống ở nơi khác, hoặc ở VN hoặc ở nước ngoài; thứ tư, họ có thể nhận những khoản thu nhập chuyển của Nhà nước; thứ năm, dù hơi hiếm xảy ra ở VN hiện nay, họ có thể dựa vào đầu tư cá nhân trong suốt cuộc đời dưới dạng tiết kiệm hoặc chương trình bảo hiểm hưu trí tư nhân. 114 | Hà Nam Khánh Giao & Hà Mình Đạt | 97 - 115 5. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng có 7 yếu tố khách hàng cao tuổi quan tâm khi lựa chọn ngân hàng gồm: Chất lượng nhân viên, giá, uy tín, kinh nghiệm, cơ sở vật chất, ưu đãi và sự tham khảo. Phân tích biệt số làm rõ thêm sự khác biệt về mức độ quan tâm đến các yếu tố lựa chọn ngân hàng của các nhóm khách hàng khác nhau phân theo nhóm tuổi, giới tính, tình trạng làm việc, dịch vụ sử dụng và thu nhập. Theo đó, chỉ khi phân biệt khách hàng theo thu nhập hay dịch vụ sử dụng thì cả 7 yếu tố đều có sự quan tâm tương tự nhau của các nhóm. Khi phân biệt theo tuổi, giới tính, hay tình trạng làm việc, sẽ có sự khác biệt về mức độ quan tâm đến 7 yếu tố lựa chọn ngân hàng của các nhóm. Nghiên cứu này đã đem lại kết quả nhất định trong việc xác định và đánh giá các yếu tố khách hàng cao tuổi quan tâm khi lựa chọn ngân hàng. Điều đó, phần nào giúp các ngân hàng hiểu được thái độ, mong muốn của người tiêu dùng khi lựa chọn ngân hàng. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng có những hạn chế, và đó chính là đề xuất cho các nghiên cứu tiếp theo: Thứ nhất, kích thước mẫu còn hạn chế, nếu đủ nguồn lực và điều kiện khảo sát mở rộng toàn TP.HCM và toàn quốc, kết quả có thể đại diện tốt hơn. Thứ hai, có thể cần có những nghiên cứu định tính sâu rộng hơn nữa để tiếp tục hoàn thiện mô hình nghiên cứu và thang đo References Anderson, W. T. (1976), “Bank Selection Decisions and Market Segmentation”, Journal of Marketing (Pre-1986), 40(000001), 40-40. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Senior Citizen, tại truy cập ngày 25/07/2012. Blankson, C., Cheng, J. M., & Spears, N. (2007), “Determinants of Banks Selection in USA, Taiwan and Ghana”, The International Journal of Bank Marketing, 25(7), 469-489. Chigamba, C., & Fatoki, O. (2011), “Factors Influencing the Choice of Commercial Banks by University Students in South Africa”, International Journal of Business and Management, 6(6), 66-76. Công ty tư vấn MCG (2006), Nghiên cứu khả năng cạnh tranh và tác động của tự do hóa dịch vụ tài chính: Trường hợp ngành ngân hàng. Dupuy, G. M. (1976), “Comments on Bank Selection Decision and Marketing Segmentation", Journal of Marketing (Pre-1986), 40(000004), 89-89. Phát triển Kinh tế 280 (02/2014)| 115 Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS - tập 2, NXB Hồng Đức, TP.HCM. Hutton D. (2008), Older Persons in Emergencies: Considerations for Action and Policy Development, WHO. Mokhlis, S., Nik Hazimah, N. M., & Hayatul, S. S. (2010), “Ethnicity and Choice Criteria in Retail Banking: A Malaysian Perspective”, International Journal of Business and Management, 5(6), 98-105. Nguyễn Đình Thọ (2011), Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh, NXB Lao động xã hội, TP.HCM. Nguyễn Quỳnh (2008), Các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn ngân hàng của khách hàng cá nhân tại TP.HCM, Luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh, Trường Đại học Bách khoa TP.HCM. Nguyễn Xuân Lãn, Phạm Thị Lan Hương, Đường Thị Liên Hà (2011), Hành vi người tiêu dùng, NXB Tài chính, TP.HCM. Phạm Thị Tâm & Phạm Ngọc Thúy (2010), “Yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng chọn lựa ngân hàng của khách hàng cá nhân”, tạp chí Khoa học và đào tạo ngân hàng, Số 103, tháng 12/ 2010. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VN (2010), Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12, Hà Nội. Rehman, H.U. & Ahmed, S (2008), “An Empirical Analysis of Determinants of Bank Selection in Pakistan”, Pakistan Economic and Social Review, Vol. 46, No. 2, 147-160. Ta Huu Phuong & Kar, Y. H. (2000), “A Study of Bank Selection Decisions in Singapore Using the Analytical Hierarchy Process”, The International Journal of Bank Marketing, 18(4), 170-180. Tổng cục Thống kê VN (2009), Tổng điều tra dân số & nhà ở năm 2009, Hà Nội. Tréguer Jean- Paul (2009), Marketing cho khách hàng trung niên, NXB Lao động xã hội, TP.HCM.
File đính kèm:
- danh_gia_cac_yeu_to_lua_chon_ngan_hang_thuong_mai_tai_tp_ho.pdf