Ảnh hưởng của hội nhập tài chính trong AEC đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung đánh giá những ảnh hưởng của hội nhập tài chính trong Cộng đồng

Kinh tế ASEAN (AEC) tới năng lực tài chính và cung cấp các dịch vụ tài chính của các ngân hàng

thương mại (NHTM) Việt Nam. Trong thời gian qua, các NHTM Việt Nam đã đạt được một số

thành công nhất định, thể hiện ở các chỉ số tăng trưởng quy mô mạng lưới hoạt động, tăng trưởng

vốn điều lệ và tổng tài sản. Tuy nhiên, dưới áp lực hội nhập, hệ số an toàn vốn (CAR) có xu hướng

giảm nhẹ trong năm 2016 do các NHTM áp dụng cách tính hệ số CAR theo các quy định mới

hướng tới từng bước tiếp cận chuẩn quốc tế hơn. So với các nước trong AEC, năng lực tài chính và

cung cấp dịch vụ tài chính của các NHTM Việt Nam còn thấp nên cần phải thực hiện các giải pháp

đồng bộ và quyết liệt trong thời gian tới để nâng cao năng lực cạnh tranh cho hệ thống ngân hàng

Việt Nam.

pdf11 trang | Chuyên mục: Ngân Hàng Thương Mại | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 222 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Ảnh hưởng của hội nhập tài chính trong AEC đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
ghệ hiện đại thông 
qua dịch vụ Internet, dịch vụ qua thiết bị di 
động, dịch vụ thẻ để nâng cao khả năng cạnh 
tranh đối với các NHTM trong khu vực. Đến 
cuối năm 2017, ở Việt Nam, có hơn 65 NHTM 
đã cung ứng dịch vụ Internet Banking, 35 
NHTM cung cấp dịch vụ thanh toán Mobile 
banking, hơn 60 NHTM cung ứng dịch vụ thẻ. 
Bên cạnh đó, còn có rất nhiều tổ chức trung 
gian thanh toán ứng dụng công nghệ FinTech 
hỗ trợ cho các khách hàng tham gia thanh toán 
online, phục vụ thanh toán điện tử. 
Dân số Việt Nam đến thời điểm cuối năm 
2017 có 93,7 triệu người, trong đó 60% dân số 
dưới 25 tuổi, 12% dân số được coi là được đào 
tạo hoặc có kỹ năng. Theo Nielsen, người dùng 
Internet ở Việt Nam dành gần 25 giờ mỗi tuần 
N.C. Nhung p o : n n o n ập 3 S 4 (2018) 17-27 25 
trực tuyến. Đây là mức cao so với các nơi khác 
ở Đông Nam Á. Chính nhờ đó, thói quen của 
người tiêu dùng ở Việt Nam cũng đang thay đổi 
và có xu hướng tiêu dùng mua bán qua mạng 
nhiều hơn. Theo ước tính của e-Marketer, 
doanh số bán hàng trực tuyến tại Việt Nam 
trong năm 2016 là 1,7 tỷ đô la và năm 2017 là 
2,1 tỷ đô la. Trong xu thế đó, các NHTM đã rất 
năng động và cho ra mắt nhiều sản phẩm, dịch 
vụ ngân hàng trực tuyến được đa dạng hóa để 
phù hợp với từng nhóm khách hàng. Dịch vụ 
ngân hàng điện tử được tiếp cận dễ dàng và sẵn 
sàng sử dụng qua nhiều kênh khác nhau giúp 
người dân có thêm nhiều lựa chọn khi thực hiện 
các giao dịch và thanh toán trực tuyến như 
Mobile banking, Internet banking, SMS 
banking, ví điện tử, máy ATM và điểm chấp 
nhận thẻ (POS). Với nhiều tiện ích trực tuyến, 
chi phí thấp, thời gian xử lý giao dịch nhanh, ưu 
việt hơn giao dịch ngân hàng truyền thống, sản 
phẩm ngân hàng điện tử đã đem lại nhiều lợi 
ích cho cả ngân hàng và khách hàng. 
Hình 2. Số lượng ATM, 
POS và thẻ ngân hàng qua các năm. 
 ồn: Báo cáo thường niên các năm của NHNN. 
Để tăng cường tính bảo mật và an toàn cũng 
như tăng khả năng tích hợp các tiện ích trên thẻ 
cho khách hàng, công nghệ thẻ được thay đổi từ 
công nghệ từ sang công nghệ chip. Các NHTM 
ở Việt Nam đã đầu tư hạ tầng nâng số lượng 
thiết bị đầu cuối POS với tốc độ khá nhanh để 
nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Tuy 
nhiên, theo đánh giá của PwC Growth Markets 
Centre (2018), do những khoảng trống cơ sở hạ 
tầng và thiếu nhận thức về tài chính, tiền mặt 
vẫn được ưu tiên sử dụng làm phương thức 
thanh toán chính tại các nước ASEAN, trong đó 
có Việt Nam. Tỷ lệ máy ATM trên 100.000 
người ở Việt Nam vẫn thấp nhất. 
Hình 3. Số máy ATM trên 100.000 người tại 
các nước ASEAN năm 2016. 
 ồn: PwC Growth Markets Centre (2018). 
Như vậy, mặc dù Việt Nam có thuận lợi về 
dân số đông, lực lượng lao động trẻ sử dụng 
Internet và điện thoại thông minh cao, nhưng 
các NHTM Việt Nam vẫn chưa tận dụng tối đa 
tiềm năng đó để có thể phát triển hệ thống cung 
cấp dịch vụ ngân hàng đa dạng, đa tiện ích 
ngang tầm với các nước trong khu vực. Cho đến 
nay, đã có một số NHTM Việt Nam đầu tư, ứng 
dụng các giải pháp công nghệ thanh toán mới, 
hiện đại, như: xác thực vân tay, sinh trắc, sử 
dụng mã QR code, thanh toán phi trực tiếp để 
mang lại tiện lợi và an toàn trong giao dịch 
thanh toán điện tử. Tuy nhiên, số lượng người 
sử dụng các dịch vụ này cũng chưa đạt được kết 
quả kỳ vọng như tiềm năng và lợi thế của 
Việt Nam. 
N.C. Nhung p o : n n o n ập 3 S 4 (2018) 17-27 
26 
5. Kết luận và hàm ý chính sách cho Việt Nam 
Trong thời gian qua, năng lực cung cấp dịch 
vụ tài chính của các NHTM Việt Nam đã thay 
đổi khá nhanh với sự đa dạng hóa về sản phẩm 
dịch vụ và chất lượng dịch vụ đã được cải thiện 
đáng kể, đặc biệt là các dịch vụ liên quan tới 
công nghệ. Vốn chủ sở hữu mặc dù có tăng qua 
các năm nhưng nếu so với các NHTM trong 
khu vực thì quy mô vẫn còn nhỏ. Trong quá 
trình tài cấu trúc hệ thống ngân hàng, các 
NHTM đã chú trọng tăng vốn chủ sở hữu để 
năng cao năng lực tài chính và khả năng cạnh 
tranh với các ngân hàng liên doanh và ngân 
hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam cũng 
như khả năng phát triển thị trường ra các nước 
ASEAN. Điều này đã phần nào giảm thiểu rủi 
ro, đặc biệt là giúp NHTM có điều kiện thu hút 
thêm vốn, phát triển nhân lực, đầu tư công nghệ 
hiện đại, mở rộng mạng lưới và tăng cường cơ 
sở vật chất. 
Cho đến nay, Việt Nam đã luôn thực hiện 
theo đúng lộ trình cam kết hội nhập tài chính 
trong AEC cho giai đoạn I, II và III. Trong các 
khuôn khổ hợp tác đa phương mà Việt Nam đã 
tham gia ký kết, lĩnh vực hội nhập tài chính 
được thể hiện ở các cam kết mở cửa thị trường 
dịch vụ tài chính trong ASEAN, ASEAN+ và 
WTO, trong đó các cam kết trong WTO là các 
cam kết nền tảng và trong ASEAN là mức cam 
kết cao hơn. Tuy nhiên, trong thời gian tới, khi 
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên 
Thái Bình Dương (CPTPP) được ký kết và có 
hiệu lực thì đây sẽ là hiệp định có mức độ cam 
kết cao nhất trong lĩnh vực tài chính ngân hàng 
và được quy định tại riêng một chương - 
Chương 11, hướng tới tạo ra một môi trường 
đầu tư thuận lợi dành cho các nhà đầu tư nước 
ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính. Do đó, 
NHNN vẫn cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung các 
quy định, chuẩn hóa cách tính hệ số an toàn tối 
thiểu theo chuẩn mực quốc tế làm cơ sở cho các 
NHTM phấn đấu áp dụng, giúp tăng khả năng 
cạnh tranh cho toàn hệ thống. 
Nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ tài 
chính đáp ứng khả năng cạnh tranh với các 
nước trong khu vực bằng cách tập trung xây 
dựng hệ thống dịch vụ ngân hàng bán lẻ có chất 
lượng, an toàn và đạt hiệu quả kinh tế cao. Sau 
đó, cần nghiên cứu mở rộng thị trường dịch vụ 
ngân hàng bán lẻ cả về góc độ địa bàn kinh 
doanh cũng như đa dạng hóa sản phẩm để cung 
ứng đầy đủ, kịp thời, thuận tiện cho mọi đối 
tượng khách hàng gồm doanh nghiệp lớn, 
doanh nghiệp vừa và nhỏ và khách hàng cá 
nhân. Đến năm 2020, phấn đấu phát triển được 
hệ thống dịch vụ ngân hàng bán lẻ ngang tầm 
với các nước trong khu vực về chủng loại, chất 
lượng và khả năng cạnh tranh. 
Trong thời gian tới, nhờ có công nghệ 
fintech phát triển, các NHTM nên cân nhắc 
giảm việc phát triển mạng lưới các chi nhánh, 
các phòng giao dịch ở các tỉnh, thành phố lớn, 
tập trung nguồn lực để sắp xếp mô hình hoạt 
động gọn nhẹ gắn với việc tăng cường áp dụng 
khoa học công nghệ nhằm đáp ứng nhanh 
chóng và hiệu quả nhu cầu sử dụng dịch vụ 
ngân hàng của người dân ở mọi lúc mọi nơi. 
Tăng cường liên kết giữa các NHTM, các ngân 
hàng đại lý nước ngoài, mở rộng điểm chấp 
nhận thẻ để tiếp tục phát triển khả năng sử dụng 
thẻ và phát huy tính năng tác dụng của thẻ, tiết 
kiệm chi phí và tạo thuận lợi cho khách hàng. 
Các NHTM cũng cần tăng cường hợp tác với 
các tổ chức và doanh nghiệp có các khoản 
thanh toán dịch vụ thường xuyên như điện, 
nước để khách hàng có thể thanh toán trực 
tuyến. Ngoài ra, các NHTM cũng cần chú trọng 
nâng cao chất lượng, chuyên môn hóa đối với 
cán bộ trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng bán lẻ 
về trình độ nghiệp vụ, về tác phong giao dịch 
cũng như nhận thức về tầm quan trọng của dịch 
vụ bán lẻ trong bối cảnh hội nhập ngày càng 
sâu như hiện nay. 
Tài liệu tham khảo 
[1] UNCTAD, World Investment Report 2018: 
Investment and New Industrial Policies, 
June 2018. 
[2] Cục Đầu tư nước ngoài, “Tình hình thu hút Đầu tư 
nước ngoài 8 tháng năm 2018”, 2018, 
N.C. Nhung p o : n n o n ập 3 S 4 (2018) 17-27 27 
hut-Dau-tu-nuoc-ngoai-8-thang-nam-2018. 
[3] Google and Temasek, “e-Conomy SEA Spotlight 
2017: Unprecedented growth for Southeast Asia’s 
$50B internet economy, 2017”, 2017. 
[4] Tô Thị Thanh Trúc, “Khu vực tài chính Việt Nam 
trong bối cảnh hội nhập tài chính ASEAN”, Tạp 
chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, 19 (2016) 
Q1, 2016. 
[5] Phạm Xuân Hoan, Nguyễn Cẩm Nhung, Nguyễn 
Bích Thủy, “Ngân hàng TMCP Ngoại thương 
Việt Nam: Chủ động đón AEC”, Tạp chí Kinh tế 
và Dự báo, Số 2 tháng 1/2016. 
[6] Phạm Xuân Hoan, Nguyễn Cẩm Nhung, Nguyễn 
Bích Thủy, “Khả năng thích ứng của các ngân hàng 
thương mại Việt Nam khi tham gia hội nhập 
AEC”, Tạp chí Tài chính, Kỳ 1 tháng 12/2015 (622). 
[7] Trần Thị Vân Anh, “Ngân hàng Việt Nam trong 
tiến trình gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN”, 
Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, 4 (2016) 101. 
[8] Nguyễn Thị Diễm Hiền, “Một số vấn đề về ngân 
hàng thương mại khi Việt Nam gia nhập Cộng 
đồng Kinh tế Asean”, Tạp chí Phát triển Khoa học 
và Công nghệ, 19 (2016) Q1, 2016. 
[9] Blattner N., “Competitiveness of Banks”, Journal 
of Financial Economics, N.21 (1992). 
[10] PwC Growth Markets Centre, The Future of 
ASEAN - Time to Act Financial Services, 2018. 
Impacts of Financial Integration 
in the Asia Economic Community on Competitiveness 
of the Commercial Banks in Vietnam 
Nguyen Cam Nhung 
VNU University of Economics and Business, 
144 Xuan Thuy Str., Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam 
Abstract: This paper assesses the impacts of financial integration in the Asia Economic 
Community (AEC) on the capacity of finance and provision of financial services of Vietnamese 
commercial banks. In recent years, Vietnamese commercial banks have achieved some successes as 
reflected in the growth indicators of operation scales, charter capital and total assets. However, under 
the pressure of integration, the capital adequacy ratio (CAR) fell slightly in 2016 resulting from the 
applying of the CAR calculation method to commercial banks in accordance with the new regulations 
towards step by step approaching international standards. Compared to other countries in the AEC, the 
capacity of finance and provision of financial services of the Vietnamese commercial banks remains 
low. As a result, it is necessary to carry out synchronous and drastic measures in the coming time to 
enhance the competitiveness of the Vietnamese commercial banks. 
Keywords: Provision of financial services, capacity of finance, financial integration, AEC, 
commercial bank, Vietnam. 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_hoi_nhap_tai_chinh_trong_aec_den_nang_luc_canh.pdf
Tài liệu liên quan