Đặc sắc nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng
Tóm tắt
Bài viết tìm hiểu, nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, xác định những nét đặc sắc nổi bật
trong nghệ thuật truyện ngắn của nhà văn, thể hiện trên một số phương diện cơ bản: nghệ thuật dựng
truyện, tạo tình huống, xung đột; nghệ thuật xây dựng nhân vật; nghệ thuật tổ chức giọng điệu và ngôn
ngữ.
: “Con chim vàng của tôi chết rồi”,... trong khi thằng Bào “máu từ trên đầu chảy trên những chiếc lá quấn vo mình nhỏ giọt”. Truyện ngắn kết thúc nhưng xung đột giai cấp ở nông thôn vẫn diễn ra, sự đối lập đó không thể xoa dịu Ở Quán rượu người câm, kết thúc là sự xuất hiện của người cán bộ Đồng khởi. Kết thúc của truyện ngắn gắn liền với hoàn cảnh cuộc chiến, chiến tranh gắn liền với những bất ngờ nằm ngoài khả năng tưởng tượng của con người. Sau 1975, nằm trong xu thế chung của văn học dân tộc, truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng chủ yếu tập trung vào những vấn đề đạo đức, và thế sự, đời tư; nhân vật là con người đời thường (các truyện: Linh Đa, Người đàn bà đức hạnh, Con chim quên tiếng hót, Con mèo Foujita, Con khướu sổ lồng, Thế võ, Tôi thích làm vua,). Các truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng ở chặng đường này thường có kiểu kết thúc mang tính triết lý về những vấn đề đạo đức, thế sự đời tư nhưng cũng đầy bất ngờ (các truyện: Con chim quên tiếng hót, Con mèo Foujita, Con khướu sổ lồng, Thế võ, Tôi thích làm vua,). Các kiểu kết thúc bất ngờ và mang tính triết lý trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng gợi ra nhiều suy nghĩ cho người đọc về con người, về xã hội là những đóng góp rất đáng kể của Nguyễn Quang Sáng cho truyện ngắn Việt Nam hiện đại. 4. Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng thường được miêu tả qua các biến cố, đối lập, tương phản và mâu thuẫn với kẻ thù, đôi khi với chính mình. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng khá phong phú, đa dạng, được xây dựng chủ yếu dựa trên cơ sở hiện thực của cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, chủ yếu là ở vùng Nam Bộ. Mâu thuẫn dẫn tới xung đột chủ yếu trong tác phẩm là xung đột dân tộc, đối lập giữa ta và địch, giữa người mất nước và kẻ đi cướp nước. Trong tác phẩm của ông luôn hình thành hai tuyến nhân vật ở hai mặt đối lập ấy. Đối lập ở đây là đối lập - tương phản, tức đối lập trong thế chống lại nhau, loại trừ 97 nhau một cách quyết liệt, triệt để. Điều đáng nói là trong hầu hết các sáng tác của Nguyễn Quang Sáng, số lượng nhân vật phản diện, nhân vật trực tiếp “thực thi” tội ác, không nhiều và rất mờ nhạt. Người đọc chỉ thấy xuất hiện ở con mẹ mụ chủ trong Con chim vàng, Lý trong Ông Năm Hạng, tên phản bội trong Quán rượu người câm Chủ yếu trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng thời kỳ này là các nhân vật chính diện. Họ là lớp lớp thế hệ anh, chị du kích, bộ đội, người già, người trẻ và thế hệ con cháu tiếp nối truyền thống. Những nhân vật như Ba Hoành, Bảy Ngàn, Thu, chị Nhung, chị Dung, tên tuổi của họ gắn liền với sự nghiệp sáng tác văn học của Nguyễn Quang Sáng. Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng mang đậm tính cách của con người Nam Bộ, trọng nghĩa khinh tài, dám xả thân vì mục đích và lý tưởng, dứt khoát trong suy nghĩ cũng như hành động (Ba Hoành trong Quán rượu người câm, ông Năm Hạng trong Ông Năm Hạng, Dung trong Chị xã đội trưởng, Thu trong Chiếc lược ngà,...). Nguyễn Quang Sáng chú ý khắc họa nhân vật từ nhiều phương diện, tạo nên các dạng thái tính cách và số phận riêng. Điểm chung nhất ở các nhân vật này là có ý chí, nghị lực, lòng tự trọng cao, có bản lĩnh, sức sống mạnh mẽ. Nhân vật thuộc thế hệ trẻ rất được nhà văn nâng niu, quý trọng. Dung trong Chị xã đội trưởng, một cô gái trẻ nghịch ngợm, chiến tranh gian khổ vất vả là thế nhưng vẫn vui tươi và nhí nhảnh, giả vờ tạo ra tình huống để thử thách người yêu mình. Thu trong Chiếc lược ngà là một cô gái thông minh có bản lĩnh ngay từ lúc còn nhỏ, đến khi trưởng thành, trở thành cô giao liên bình tĩnh, tự chủ trong mọi trường hợp, sẵn sàng chấp nhận nguy hiểm để cứu cả đoàn quân. Nhung trong Chị Nhung lại có một vẻ khác, bề ngoài như thiếu nữ đúng mốt người Sài Gòn: “Cưỡi xe hon đa, mang kính mắt đen, quần ống hẹp, áo bó sát người”, nhưng, “nhờ cái vẻ bề ngoài ấy mà qua được mắt địch, đánh úp được chiếc xe tăng đang án ngữ trên con đường tiến công duy nhất của ta, lật ngược được tình thế trận đánh”. Nếu như ở giai đoạn trước 1975, nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng tồn tại giữa ta và địch, thiện và ác thì giai đoạn sau 1975, nhân vật có thể sống với nhiều cuộc đời, chịu nhiều áp lực của các mặt đối lập: đối lập giữa thật và giả, giữa khuôn mẫu và tự do, giữa “tôi” và “kẻ khác”... Tấn trong Người bạn lính luôn tự hào về danh hiệu anh hùng, khiến anh dường như bị cứng đơ trong cái khuôn mẫu “anh hùng”, đẩy anh từ chỗ là người bạn thân, gần gũi với Quang, trở thành một người trịnh trọng, xa cách... Các nhân vật Kỳ trong Nhi đồng cụ, Sáu Cương trong Nhân vật ấy không được chết, con khướu trong Con khướu sổ lồng, từng nhân vật luôn đấu tranh để giành lại những giá trị đích thực, khẳng định cái gì là tự nhiên, cái trung thực, tự do phải thắng cái giả dối, khuôn mẫu. Quan hệ đối lập tương phản giữa các nhân vật trong thời kỳ này cũng khác thời kỳ trước: đối lập giữa nhân vật Tôi và Đực trong Tôi thích làm vua; đối lập của Siêm Nâu với Tư Sang, đối lập giữa Tư Sang với ông Hương Cả trong Thế võ, đối lập giữa Bảy Ngàn và Ba Giáo trong Nhi đồng cụ... Đó là sự đối lập giữa sự khiêm tốn, giản dị với vẻ vênh váo huyênh hoang, giữa quyền lực giàu có với sự phụ thuộc, nghèo khổ; là sự đối lập giữa cái giả và cái thật, giữa danh vọng và những giá trị đích thực. Sự đối lập giữa các nhân vật không chỉ ở hình thức bên ngoài mà còn cả 98 ở bên trong. Nhân vật tự đối diện với chính mình, tự thức tỉnh Ý nghĩa xã hội của truyện đã vượt ra ngoài đề tài mà truyện bao quát. 5. Giọng điệu là yếu tố góp phần quan trọng đặc biệt tạo trong nên phong cách một nhà văn. Điều này từng được nhiều nhà nghiên cứu có uy tín, tiêu biểu như M. Khrapchenko chứng minh một cách rất thuyết phục trong công trình Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học(6). Giọng điệu là “Thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm”(7).... Có thể thấy giọng điệu của truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng cũng lắm cung bậc, sắc thái, có hào sảng, nồng nhiệt, đắm đuối, có trầm mặc, suy tư, chiêm nghiệm Tuy nhiên gây ấn tượng nhất vẫn là giọng nồng nhiệt, giàu chất “nhạc rốc”, ngang tàng, mạnh mẽ, dứt khoát. Cách miêu tả con người cũng như cảnh huống bao giờ cũng mạnh mẽ, rõ ràng, không có hiện tượng lưng chừng “nước lợ”. Sở dĩ có đặc điểm này là do nhà văn luôn đẩy nhân vật đến tận cùng của hành động quyết đoán, tận cùng của nỗi đau, miêu tả chiến tranh như đúng bản chất khốc liệt của nó. Các truyện ngắn như muốn đi đến tận cùng mọi ngõ ngách của vấn đề. Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng cho thấy không hề có biểu hiện của thái độ lạnh lùng thờ ơ của người viết đối với hiện thực được miêu tả, nhất là với hiện thực chiến tranh. Nguyễn Quang Sáng “nồng nhiệt và đắm đuối” với những gì thuộc về người chiến sĩ. Tất cả các khía cạnh hiện thực mà nhà văn miêu tả đều trong mối liên quan đến số phận con người. Chiến tranh, sự sống và cái chết, lòng trung thành và sự phản bội, thành công và thất bại tất cả đều liên quan đến người lính. Hoà bình, niềm khát khao cháy bỏng của những người cầm súng hơn ba mươi năm (cả những người còn sống và những người đã hy sinh). Hoà bình, lại là nỗi nhức buốt hơn cả vết thương bom đạn 6. Tương ứng với giọng điệu ấy là một thứ ngôn ngữ “bạo liệt”, rắn rỏi, góc cạnh, đậm chất Nam Bộ, dầu là ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ của người trần thuật hay ngôn ngữ nhân vật. Ngôn ngữ của người trần thuật mộc mạc, ngắn gọn, dễ hiểu, hạn chế tối đa sự mơ hồ, đa nghĩa. Có lẽ, xuất phát từ quan niệm văn học phải phản ánh được chân thực tối đa những gì đang xảy ra trong cuộc sống với đầy đủ sắc thái vùng miền (vùng Nam Bộ), nhà văn chủ trương: nghĩ cho kỹ nhưng phải viết cho nhanh, nghĩ thế nào viết thế ấy, viết hết những gì mình quan sát được, thấy được trong cuộc sống có quá nhiều mâu thuẫn, xung đột... Ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng cũng vậy, kể cả ngôn ngữ hội thoại và ngôn ngữ độc thoại. Điều rất đáng chú ý là trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, ngôn ngữ có nhiều khoảng lặng - một kiểu ngôn ngữ “câm”, “không lời”, nhưng đằng sau đó là những gì “cuộn sóng”, dữ dội. Đấy là ngôn ngữ độc thoại của các nhân vật trong các truyện: Ông Năm Hạng, Quán rượu người câm, Sự tích một bài ca, Con chim vàng Thật thấm thía khi nhân vật Ba Hoành trong Quán rượu người câm tự nói với mình (độc thoại): “Đừng thấy dòng sông lặng lẽ mà bảo dòng sông không có sóng. Sóng đang nổi lên từ dưới đáy người ta gọi là sóng ngầm”... Dữ dội, không một chút bình yên trong những hiện thực không bình thường dường như là nét xuyên suốt trong tính cách, và do đó là nét 99 xuyên suốt trong ngôn ngữ nhân vật - ngôn ngữ của con người Nam Bộ trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng... TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nhiều tác giả (2002), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội,. 2. Nhiều tác giả (2000), Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký, Nxb Thanh niên, Hà Nội, tr. 44. 3. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 258. 4. Nguyễn Đăng Mạnh (30/11/1991), “Truyện ngắn hôm nay”, báo Văn nghệ, số 48. 5. Nguyễn Quang Sáng (1999), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 6. M. Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học (Lê Sơn - Nguyễn Minh dịch), Nxb Tác phẩm mới (Hội Nhà văn Việt Nam), Hà Nội. 7. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (1999), Từ điển thuật ngữ văn học (in lần thứ ba), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.134. Ngày nhận bài: 04/6/2015 Biên tập xong: 15/8/2015 Duyệt đăng: 20/8/2015
File đính kèm:
- dac_sac_nghe_thuat_truyen_ngan_nguyen_quang_sang.pdf