Bài giảng Văn học nước ngoài - Chương IV: Văn học Trung Quốc hiện đại - Huỳnh Ngọc Quý
I/ Giai đoạn 1 (1911- 1949) “Văn học dân chủ, tiền cách mạng và hiện đại hoá”
Văn học cất tiếng nói giã từ chế độ phong kiến. Văn học truyền bá tư tưởng phê phán chế độ phong kiến, cổ vũ cho tư tưởng cộng hoà, dân chủ Văn học hiện đại có thể tính từ Cách mạng Tân Hợi năm 1911 hoặc từ cuộc vận động Ngũ Tứ 1919. Nổi bật là nhà văn, nhà báo, nhà giáo Lỗ Tấn.
Thực hiện:Huỳnh Ngọc Qúy Trương Thị Huyền Trang Nguyễn Thị Minh Hải CHƯƠNG IV VĂN HỌC TRUNG QUỐC HIỆN ÐẠI Văn học nước ngoài Khái quát CHƯƠNG IV VĂN HỌC TRUNG QUỐC HIỆN ÐẠI I/ Giai đoạn 1 (1911- 1949) “ Văn học dân chủ , tiền cách mạng và hiện đại hoá ” II/ Giai đoạn 2 (1949-1965) “ Nền văn học xã hội chủ nghĩa giai đoạn đầu ” III/ Giai đoạn 3 (1966-1976) 10 năm động loạn “ Đại cách mạng văn hoá vô sản ” IV/ Giai đoạn 4 (1977-1982 và tiếp tục tới nay) gọi là “ Văn học đương đại ” I/ Giai đoạn 1 (1911- 1949) “ Văn học dân chủ , tiền cách mạng và hiện đại hoá ” Văn học cất tiếng nói giã từ chế độ phong kiến . Văn học truyền bá tư tưởng phê phán chế độ phong kiến , cổ vũ cho tư tưởng cộng hoà , dân chủ Văn học hiện đại có thể tính từ Cách mạng Tân Hợi năm 1911 hoặc từ cuộc vận động Ngũ Tứ 1919. Nổi bật là nhà văn , nhà báo , nhà giáo Lỗ Tấn . Ông là nhà tổ chức , cây bút tiên phong chủ lực xây dựng nền văn học mới của cách mạng vô sản . Sau đó , nhà thơ Quách Mạt Nhược , nhà văn Mao Thuẫn , Ba Kim, Lão Xá và Tào Ngu trở thành những cây bút hàng đầu của nền văn học mới , sẽ trở thành những nhà văn cộng sản đầu tiên ( năm 1921 Đảng Cộng sản TQ ra đời ) . . . và tiếp tục sáng tác về sau II/ Giai đoạn 2 (1949-1965) “ Nền văn học xã hội chủ nghĩa giai đoạn đầu ” Văn học sáng tác theo “ Tư tưởng văn nghệ Mao Trạch Đông ”. Ngoài những tác giả lão thành có mặt từ giai đoạn đầu , thêm những tên tuổi mới : Chu Lập Ba , Ngải Thanh , nữ sĩ Dương Mạt , La Quảng Bân , Điền Hán . vv Những tác phẩm tràn đầy hào khí cách mạng nhưng nghệ thuật còn non yếu , kéo dài 16 năm . Cuộc cải cách ruộng đất nông thôn – đấu tổ địa chủ đã mắc sai lầm nghiệm trọng như thời cổ đại . Tiếp đó công cuộc xây dựng CNXH với những mô hình ấu trĩ “ duy ý chí ” như “ công xã nhân dân ”, phong trào “ đại nhảy vọt ”. Tình trạng quan liêu , cửa quyền , tham nhũng triền miên , kinh tế suy đốn . . xã hội điêu tàn , chính trị khủng hoảng , văn nghệ khô cứng . Tình trạng đó tất yếu phải dẫn đến một sự đổ vỡ nào đó . Vai trò lãnh đạo của chủ tịch Mao Trạch Đông suy yếu . Cặp Lâm Bưu - Giang Thanh rồi đến “ bè lũ 4 tên ” chụp lấy cơ hội nhảy ra . III/ Giai đoạn 3 (1966-1976) 10 năm động loạn “ Đại cách mạng văn hoá vô sản ” Thực chất “ cách mạng văn hoá ” chỉ diễn ra trong 3 năm (1966-1969) nhưng hậu quả kéo dài đến 1979 và lâu dài hơn . Lịch sử gọi đó là “10 năm động loạn ”, văn học nghệ thuật chân chính bị tê liệt . Thay vì cải tổ cải cách , vực dậy tình trạng suy đốn của đất nước , Lâm Bưu , Giang Thanh và “ bè lũ 4 tên ” âm mưu cướp đoạt quyền lãnh đạo Đảng , Nhà nước bằng cách mở chiến dịch mang tên “ Đại cách mạng văn hoá vô sản ”. Nhân danh cách mạng chân chính , thực chất họ là “ phái tả ” Họ tung nhiều “ chưởng ” tàn bạo , dã man đạp thêm cho đất nước Trung Hoa ngày càng dúi sâu xuống vũng bùn suy đồi Họ chọn đột phá khẩu là “ phê phán văn nghệ tư sản ” và đả kích vạch mặt “ phái hữu ” ( nghĩa là tư tưởng rút lui , không kiên trì cách mạng vô sản , có ý muốn theo con đường tư bản chủ nghĩa ), đó chỉ là cái cớ để triệt hạ tất cả những con người ưu tú nhất của đất nước . Lịch sử TQ sẽ không bao giờ quên “10 năm động loạn ” khủng khiếp hơn cả thời đế chế Tần Thuỷ Hoàng . Trong thời xây dựng hoà bình mà có tới hàng triệu người , trong đó có hàng trăm văn nghệ sĩ cách mạng bị bức hại đến chết , tất cả trường đại học , học viện đóng cửa Văn học Trung Quốc giai đoạn này bị tê liệt nếu chưa nói là bị tiêu diệt . ( Lúc này , đất nước Việt Nam đang tập trung kiên trì kháng chiến chống Mỹ cứu nước , không chịu ảnh hưởng của “ đại cách mạng văn hoá vô sản Trung Quốc ”) IV/ Giai đoạn 4 (1977-1982 và tiếp tục tới nay) gọi là “ Văn học đương đại ” Từ sau 1976 đến 1982. Những người đảng viên cộng sản chân chính với sự ủng hộ của quần chúng cách mạng , kiên quyết đấu tranh chống lại “ bè lũ bốn tên ” đã giành lại quyền lãnh đạo cách mạng . Đất nước TQ tìm ra đường lối mở cửa , phong trào “ bốn hiện đại hoá ” theo đường lối tư tưởng của lãnh tụ Đặng Tiểu Bình . Văn học cuộn mình trỗi dậy . Dòng văn học “ vết thương ”, dòng văn học “ sám hối ” với những tác phẩm sục sôi đòi thanh toán nỗi uất ức “10 năm khủng khiếp ”, triệt để phê phán giai đoạn sai lầm ấu trĩ , từ đây mở ra thời kì phục hưng văn học nghệ thuật . Văn chương giữ vai trò tiên phong trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật và đời sống tinh thần của công chúng Trung Quốc .. Kể từ những năm 1982 về sau , văn học “ trăm hoa đua nở ” ( bách hoa tranh khai ). Những cây bút trẻ hăm hở tìm tòi phương pháp mới đồng thời kế thừa những phương pháp truyền thống của Trung Quốc và nhân loại . Nhiều phong cách mới , tác giả mới xuất hiện , mau chóng tạo ra sức hút mạnh mẽ trong đời sống văn học nghệ thuật hồi sinh . Có thể nói , cuộc “ lột xác ” để phục hưng của văn học Trung Quốc thật đớn đau , phải trả bằng những giá đắt chưa từng có trong lịch sử . Nổi bật lên hàng trăm cây bút , tiêu biểu với hàng chục tác giả xuất sắc như Trương Hiền Lượng , Vương Mông , Đường Mẫn , Phùng Kí Tài , Cao Hiểu Thanh , Giả Bình Ao Lưu Tâm Vũ , Mạc Ngôn , Vệ Tuệ , Miên Miên , Cửu Đan , Diệp Tân , Như Chí Quyên , Uông Tằng Kỳ , Tốt Thục Mẫn , Diệp Văn Linh . . Những cây bút trẻ đó quả thực không làm hổ danh nền văn học truyền thống TQ ba ngàn năm qua. Bắt kịp tư tưởng – phương pháp nghệ thuật Tây Âu - Nga - Mỹ họ sáng tạo với những tư tưởng nghệ thuật mới mẻ , phóng khoáng , không câu nệ qui phạm , họ không bận tâm quá nhiều vào những phương pháp cổ điển , truyền thống Trung Hoa . Truyện ngắn , tản văn , tiểu thuyết lấn át thơ ca. Cảm hứng chủ đạo đầu tiên của họ là kiên quyết phê phán quá khứ “ cách mạng vô sản ” . Truyện ngắn “Song cầm tế ” ( Văn tế hai cây đàn sinh đôi ) của nhà văn Lương Hiểu Thanh , tác phẩm được coi là một trong những bản tuyên ngôn nghệ thuật hiện đại . Tiểu thuyết “ Phong nhũ phì đồn ” ( Vú to mông nở ) của nhà văn thạc sĩ Mạc Ngôn gây “ cơn sốt ” văn chương cuối thế kỉ XX. “ Phong nhũ phì đồn ” được coi là bộ tiểu thuyết “ Trăm năm cô đơn ” của Trung Quốc . Trần Đình Hiến dịch ra tiếng Việt với tựa đề “ Báu vật của đời ” . Xưa nay nói tới văn học TQ, người ta nghĩ ngay tới Đường Thi và tiểu thuyết cổ điển Minh Thanh Những người bi quan cho rằng văn học hiện đại không thể sánh bằng văn học trung đại cổ điển . Thực ra , thử tính 300 năm Đường Thi để lại được 54 000 bài thơ , trung bình mỗi năm sáng tác được 80 bài . 600 năm Minh-Thanh chỉ để lại trên 10 bộ tiểu thuýêt tiêu biểu kiệt xuất , trung bình mỗi thế kỉ có 2 bộ truyện hay với tổng số khoảng 200 truyện . Thế mà chỉ cần 10 năm đổi mới , văn học hiện đại đã xuất bản được hàng trăm bộ tiểu thuyết trong đó hơn 10 bộ tiểu thuyết xuất sắc tiêu biểu Văn học đương đại TQ đang ở trong thời kì được mùa chưa từng có trong lịch sử văn học ba nghìn năm của nước này . HẾT
File đính kèm:
- bai_giang_van_hoc_nuoc_ngoai_chuong_iv_van_hoc_trung_quoc_hi.ppt