Ý thức văn nghệ trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ
Tóm tắt
Ý thức văn nghệ trong sáng tác sẽ tạo nên phong cách cá nhân của tác giả. Ở văn học Việt Nam thời
Trung đại, đặc biệt là giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, chính ý thức văn nghệ này
đã giúp cho thế hệ các nhà Nho tài tử - trong đó có Nguyễn Công Trứ - trở thành chủ nhân của một nền
văn học chống Nho giáo và hướng về chủ nghĩa nhân đạo. Bài viết nhằm làm rõ hơn vấn đề chủ thể hóa
sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Công Trứ, để ông - trong sáng tác của mình, có được một phong cách
cá nhân nổi trội và khác lạ so với đương thời.
n dung tự họa. Trong khi đó, ở các tác giả khác, dù cho vẫn sử dụng bút pháp tự trào có đôi nét cá nhân, nhưng xét đến cùng, đấy vẫn chỉ là phương tiện để nói về nhân tình, thế thái. Các đặc điểm cá nhân bị tẩy xóa hoặc uốn nắn cho phù hợp, khiến cho chân dung cổ truyền chỉ là tranh thờ hay thơ chúc tụng. Bằng bút pháp lạ hóa “Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng”, “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”, Nguyễn Công Trứ đã nhìn mình từ ngoài vào với con mắt của kẻ khác, biết biến mình thành đối tượng quan sát của chính mình, và để có thêm điều kiện nói rõ về mình hơn, chi tiết hơn, xác thực hơn. Thực ra, cũng ở các tác giả khác, nếu ở giai đoạn đầu chỉ sử dụng liệu pháp chân dung người khác để tìm cách thể hiện mình, thì càng về sau này họ cũng đã để cho phương tiện tự ý thức và tự biểu hiện nhiều hơn. Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Nguyễn Du đều không ngần ngại việc tự thuật. Yếu tố tự thuật trở nên bằng chứng tiêu biểu của việc xuất hiện chủ thể trữ tình trong lịch sử văn học. Tuy nhiên, chỉ đến (nếu như không muốn gọi là đợi đến) Nguyễn Công Trứ, thì việc tự biểu hiện mình, nhìn mình như một kẻ xa lạ, kể cả việc không ngần ngại nói về những khuyết tật của mình, mới thực sự là những dấu hiệu đặc biệt định tính. 3. Lối văn chương của Nguyễn Công Trứ là lối văn chương thị Tài cậy Tài, đầy chất tài tử. Nhờ lối văn chương này, khiến ông như có những khoảnh khắc bất chợt dành cho thi hứng, đồng thời nó tạo ra những cấu tứ bất ngờ. Cho nên, muốn hiểu nội dung cuộc sống được phản ánh, ta phải cảm được lối văn chương họ Nguyễn. Lối văn chương ở đây bao gồm cái nhìn nghệ thuật, cách tư duy, cách cảm nhận của chính ông. Nói như M.B. Khrapchenco là “Chân lí cuộc sống trong sáng tác nghệ thuật không tồn tại ngoài cái nhìn nghệ thuật có tính cá nhân đối với thế giới vốn có ở từng nghệ sĩ thực thụ, không tồn tại bên ngoài các đặc điểm về tư duy hình tượng, bút pháp sáng tác của nghệ sĩ” [2, tr.72]. Thời đại mà Nguyễn Công Trứ sống và hoạt động, đã xuất hiện loại đô thị phong kiến kiểu phương Đông, tác nhân cơ bản để ra đời cả một thế hệ nhà Nho tài tử. Họ cũng là chủ nhân của một nền văn học chứa đựng mầm mống chống Nho giáo và hướng về nhân đạo chủ nghĩa. Tuy sắc thái biểu hiện ra ngoài có khác nhau, nhưng hầu hết các tác giả tài tử đều có chung một loại thái độ tự xác định cho mình đứng một tầm cao hơn hẳn so với thế tục, so với người đời. Trong số này, Nguyễn Công Trứ là NGUYỄN VIẾT NGOẠN 7 một đại diện tiêu biểu, là tác giả có lối văn chương thị Tài và cậy Tài điển hình nhất. Trời đất cho ta một cái Tài Dắt lưng ngày tháng để dành chơi Dở dang với rượu khôn từ chén Trót nợ cùng thơ phải chuốc lời (Cầm, kỳ, thi, tửu) Dĩ nhiên, do quy định của lịch sử, như bao nhà Nho tài tử khác khi sáng tác văn chương, Nguyễn Công Trứ càng tự biểu hiện mình một cách trực tiếp bao nhiêu, thì càng cảm nhận được những giới hạn nghiệt ngã mà ông phải chịu đựng bấy nhiêu. Giới hạn lịch sử đó nếu khiến cho người “hồng nhan” phải bạc mệnh thì người “tài tử” phải chịu cảnh đa cùng bấy nhiêu. Đến ngay Nguyễn Du mà còn phải tự nhận mình khi làm nghệ thuật, văn chương cũng chỉ là kiếp điệp tử thư trung (con bướm chết trong sách). Ở hầu hết các tác giả chính của văn học Việt Nam giai đoạn này đã diễn ra cuộc vật lộn giữa tài và mệnh. Và tất nhiên, mỗi một tác giả - tài tử đều có lối thoát riêng ra khỏi hoàn cảnh này. Đây cũng là tác nhân và là nguyên nhân của sự xuất hiện hai khuynh hướng sáng tác cơ bản của giai đoạn văn học nửa cuối thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX: khuynh hướng văn học chữ THÂN và khuynh hướng văn học chữ TÀI. Trần Đình Sử khẳng định: “Từ Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương đã nổi lên con người cá nhân với tình cảm thương thân xót phận. Có thể nói trong văn học thời này đã khởi đầu một khuynh hướng văn học chữ THÂN mà Truyện Kiều là tiêu biểu nhất” [3, tr.175]. Bên cạnh đó, do ở trong một hoàn cảnh “đến nay tan tành phong cảnh, nát bét quy mô” (Phạm Thái), “nước Nam từ khi có vua đến nay không thấy có ông vua hèn hạ nào như thế - Hoàng Lê nhất thống chí”, thì các cá nhân - tài tử lại phải tìm đến cái tài như là một chỗ dựa ưu thắng cho mình. Do đó, khuynh hướng tiêu biểu thứ hai trong ý thức của các nhà sáng tác đều nhằm vào sự hãnh diện về cái tài của bản thân, và đều đòi hỏi phải đãi ngộ xứng đáng với cái tài đó. Nguyễn Hữu Chỉnh, Phạm Thái, Đặng Trần Thường, Cao Bá Quát và đặc biệt là Nguyễn Công Trứ là những tác giả tiêu biểu cho khuynh hướng văn học chữ TÀI, thị Tài và cậy Tài. Ý thức về cái tài và cậy tài này như tạo ra một nguồn cảm hứng mới, rất đậm nét của cả giai đoạn, rồi khép lại bởi hình ảnh một bậc đại trượng phu, người anh hùng thư kiếm trong văn chương Nguyễn Công Trứ. Chính ý thức về cái tài cá nhân và trông cậy vào cái tài đó khiến cho văn chương Nguyễn Công Trứ như có sự uyển chuyển nghệ thuật. Dù rằng, ở ông lắm lúc như là sự tập hợp các xu hướng triết học trong một giai đoạn suy tàn của lịch sử, sự giằng xé của các hệ tư tưởng Nho, Lão, Phật, đủ để lại cho ông khối mâu thuẫn, và cả một bế tắc chung, nhưng niềm cảm xúc thi ca của ông vẫn vút lên trên cái nền nặng nề đó. Tư duy thơ Nguyến Công Trứ có nhiều điểm mới lạ, tức là đã hòa hợp được giữa con người xã hội hướng ngoại và con người cá nhân hướng nội. Nó là sự trộn lẫn giữa thực và mộng, mộng và thực. Hơi thở nhân văn là luồng sinh khí của tư duy thơ, cảm xúc thơ. Ông đã mượn chất tự nhiên để thi vị hóa cuộc sống: Thêm hương khi gió lá mưa cành Mở mặt thấy giang sơn cười chúm chím (Yêu hoa) 4. Cũng nhờ cái phong khí thị Tài và cậy Tài mà trong sáng tác của mình, Nguyễn Công Trứ nói nhiều tới chủ đề “cầu nhàn hưởng lạc”. Điều này đã tạo ra trong lòng độc giả một hình ảnh Hy Văn thi nhân Ý THỨC VĂN NGH TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ 8 có diện mạo riêng, không giống và khó so sánh với các tác giả khác. Nhờ vậy mà văn thơ của Nguyễn Công Trứ, băng qua hai thế kỉ, từ đời này sang đời khác, chúng được lưu truyền rộng rãi trong công chúng độc giả trí thức Việt Nam, được tán thưởng và bình phẩm nhiều. Dĩ nhiên trong văn học quá khứ, ở các chủ đề khác, các tác giả cũng đã tạo được cái đặc sắc riêng của họ. Chẳng hạn Hồ Xuân Hương đanh thép và sắc bén khi châm biếm xã hội hủ bại với lũ hiền nhân quân tử giả dối, đạo đức giả. Cao Bá Quát cũng rất siêu việt khi diễn tả tâm trạng bi phẫn, bất đắc chí. Sau Nguyễn Công Trứ còn có Nguyễn Khuyến, Tú Xương quá cụ thể, quá chua cay khi phỉ báng thói đời lố lăng, ô trọc Tuy nhiên chỉ có Nguyễn Công Trứ cùng bộ phận văn thơ với chủ đề cầu nhàn hưởng lạc mới khẳng định nhu cầu hưởng thụ của con người, nâng nó lên thành cả một quan niệm nghệ thuật. Đào Tấn, nhà soạn tuồng nổi tiếng, lúc làm Tổng đốc An Tịnh, khi bàn về Nguyễn Công Trứ, cũng từng hạ bút mà phê rằng: Hoàng độc thi nhân kim bất tại Dữ quân thùy phục đính tao phùng (Nhà thơ cưỡi bò vàng nay không còn ở đây Chắc ngài đang bận hẹn gặp cùng ai) Cũng nhờ thế mạnh đặc sắc này mà văn chương Nguyễn Công Trứ được tiếp nhận một cách khoái khẩu, thậm chí còn được mô phỏng cho đến cả hậu sinh. Nếu nhìn rộng ra các nền văn hóa khác, ta thấy hình thành từ rất sớm những dòng thơ ca với mô-típ cầu nhàn hưởng lạc. Thời Phục hưng, thi hào nước Pháp Ronsard, sau những thất bại liên tiếp của trường ca, tụng ca đã chuyển sang sáng tác thơ tình, thơ hành lạc. Cùng với Ronsard còn có Rabelais, Montaigne cũng là những nhà nhân văn luôn hướng đến giá trị tối thượng của con người. Thú vị vẫn là Goethe - con người Đức vĩ đại nhất (cách gọi của Engels), người sống và sáng tác gần như cùng thời với Nguyễn Công Trứ, đã có hẳn một tập thơ Đông Tây thi tập mà trong đó cái hoan lạc của sự giao hòa thân xác và tâm hồn được nâng lên thành nguyên tắc tối cao, đồng thời là hạnh phúc viên mãn nhất của nhân sinh. Dergiavin, nhà thơ Nga đầu thế kỉ XIX, dù là kẻ dị tộc, dị giáo nhưng có số phận, hành trạng, cá tính giống Nguyễn Công Trứ lạ lùng. Ông có tập Những bài ca Anacreontiques, trong đó có bài Tự nhủ nổi tiếng, với thần thơ, tứ thơ rất tương hợp với cốt cách, bản ngã thơ hành lạc của Nguyễn Công Trứ. Sự gặp gỡ ngẫu nhiên và tương đồng kỳ lạ này càng chứng tỏ tính chất thời sự của văn chương Nguyễn Công Trứ về lẽ nhân sinh,về những đòi hỏi của lí tưởng nhân văn. Chính nền tảng nhân văn đã tạo nên mọi sáng tạo nghệ thuật. Cũng cần hiểu giá trị nhân đạo này của văn chương Nguyễn Công Trứ nằm trong khuôn khổ của lịch sử. Do mục đích hành lạc, do nhu cầu khẳng định cá nhân, cũng như các giá trị sống khác, khiến Nguyễn Công Trứ nếu thích sử dụng lối văn chương đậm màu cầu nhàn, hành lạc cho mình, thì đây cũng là ý thức văn nghệ mới, một biểu hiện nhân đạo đúng nghĩa trong hoàn cảnh đương thời. Nói như N.Konrat: “Văn học phương Đông vào thời kì này của lịch sử dường như phát triển gấp gáp hơn. Vừa đi trên con đường lãng mạn chủ nghĩa, còn chưa thành thục trên con đường ấy, nó đã phải vội vã đi tiếp đến chủ nghĩa hiện thực Đồng thời với khát khao hướng đến chủ nghĩa hiện thực một cách không ngần ngại, đã lộ ra hết sức rõ ràng những yếu tố của chủ nghĩa lãng mạn, hơn nữa thường là hình thức tình cảm cá nhân” [4, tr.331]. NGUYỄN VIẾT NGOẠN 9 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Xuân Diệu (2000), Ba thi hào dân tộc, Nxb Thanh Niên, Hà Nội. 2. M.B. Khrapchenco (1978), Cá tính sáng tạo và sự phát triển của văn học, Lê Sơn dịch, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 3. Trần Đình Sử và các tác giả (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 4. N.Konrat (1996), Phương Đông và phương Tây, Trịnh Bá Đĩnh dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Ngày nhận bài: 10/01/2017 Biên tập xong: 15/02/2017 Duyệt đăng: 20/02/2017
File đính kèm:
- y_thuc_van_nghe_trong_sang_tac_cua_nguyen_cong_tru.pdf