Xem lại ý kiến của Lỗ Tấn đối với Đào Tiềm (Qua phân tích vài thiên tạp văn của tác giả)
Tóm tắt. Đào Uyên Minh (365 - 427) được coi là “ông tổ” trong hàng các thi nhân ẩn
dật, là người mở đầu của thơ điền viên Trung Hoa. Với phong cách tự nhiên, giản phác,
thơ ca cũng như nhân cách của ông có ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều thế hệ văn nhân Trung
Quốc đời sau. Đại văn hào Lỗ Tấn (1881 - 1936) từng có bài đánh giá cao phong cách tự
nhiên, trọng yên bình của thi nhân thời Đông Tấn và nhắc nhở các nhà phê bình nên chú
ý thích đáng tới tinh thần quan tâm chính sự, xã hội trong thơ Đào Tiềm. Theo Lỗ Tấn,
chính khuynh hướng “tầm chương trích cú” phiến diện của một số nhà phê bình đã khiến
cho người đời có ấn tượng sai lạc rằng Đào Tiềm là thi nhân “siêu thoát” yêu chuộng nhàn
tĩnh, mà quên đi rằng Đào Tiềm cũng bộc lộ trong thơ tâm tư ưu thời và phê phán thế cuộc
tích cực. Và đó cũng là điều khiến cho Đào Tiềm trở nên vĩ đại. Song một vài thiên tạp văn
của Lỗ Tấn lại cho thấy văn hào không mấy cảm tình với thi nhân Đào Tiềm. Bài viết qua
việc phân tích các thiên tạp văn của Lỗ Tấn để nhận thức lại chân tinh thần của tác giả bài
ca Quy Khứ - Đào Tiềm
Nghiễm đẳng sớ - Viết dặn các con) cho tới bài văn tế tự viết lấy (Tự Tế Văn) đều thống nhất với nhau trên những nội dung cơ bản về đời sống, tính cách của Đào Tiềm. Tất cả các trần thuật đó cùng với bản thân thơ ông hoàn toàn đã cung cấp đủ chất liệu để vẽ lên một bức chân dung Đào Uyên Minh với những gam màu cơ bản, hài hòa. Vì vậy, chúng ta có quyền băn khoăn muốn biết Lỗ Tấn rốt cuộc đã căn cứ vào đâu để phán định Đào Tiềm sống cuộc sống ẩn dật thanh nhàn là dựa vào sức lao động của nô bộc? 2.2. Ai cấm kẻ nghèo làm thơ Lỗ Tấn dường như cũng không tin trong cảnh bần hàn mà lại có thể sáng tác văn chương. Trong một thiên tạp văn nhan đề “Bàng bích” chi hậu (đăng lần đầu trên tuần báo Ngữ Ti, kì 29, ngày 1/6/1925, sau in gom vào Hoa Cái Tập), ông lại nhắc đến Đào Tiềm: “Tôi ngày thường vẫn hay nói với các bạn sinh viên trẻ: Lời của cổ nhân “cùng sầu tác thư” (sầu muộn bần cùng ngồi viết sách) thực không đáng tin. Nghèo rớt mồng tơi, sầu đến chết người, còn đâu nhàn tình dật chí mà viết văn? Chúng tôi chưa từng thấy một kẻ chết đói chờ việc nào ngâm thơ bên khe núi. Tiếng nói phát ra dưới roi vọt của kẻ tù đày chẳng qua chỉ là tiếng la hét. . . Cao giọng ngâm nga “Đói khát xô xui ta ra khỏi nhà” như ông Đào Trưng Sĩ chắc lúc đó hoặc là đã có ý say rồi!” [4]. Lỗ Tấn dẫn câu thơ “Đói khát xô xui ta ra khỏi nhà” của Đào Tiềm và phỏng chừng tác giả của nó đã say rượu. Mười năm sau, trong một bài tạp văn nhan đề Bệnh hậu Tạp đàm, đăng Nguyệt San Văn học số 2 quyển 4 tháng 2/1935 (gần như cùng một thời gian với bài Ẩn Sĩ đề cập trên), Lỗ Tấn lần nữa dẫn lại câu này. Thiên tạp văn mỉa mai hạng người mà nhà văn gọi là “nhã sĩ”. Lỗ Tấn nói đại ý, muốn “nhã” thì cũng phải có địa vị và tiền bạc, chẳng hạn như Đào Uyên Minh có chút chức quan huyện lệnh thì mới “nhã” được. Liền đó, tác giả AQ Chính Truyện ngồi đặt tình huống Đào Tiềm giả sử ngày nay sống lại, nhận nhuận bút bèo bọt hiện thời mà thuê nhà có hàng rào hoa cúc để dạo hái thì mỗi tháng cần phải viết bao nhiêu trang? Đấy là chuyện ở, còn cơm ăn thì - xin dẫn nguyên văn Lỗ Tấn: “còn phải nghĩ thêm cách khác nữa. Nếu không thì ông ta đành chỉ biết “Cơ lai khu ngã khứ, Bất tri cánh hà chi” (Đói khát xô xui ta ra khỏi nhà, Không biết đến đâu đã là đâu - hai câu mở đầu của bài thơ Xin ăn). Lỗ Tấn chắc phải biết Đào Uyên Minh ghế quan huyện ngồi không đến ba tháng và ngôi nhà có hàng rào trồng cúc của họ Đào không phải là được tậu hay thuê từ “thu nhập” nghề quan. Mà thực ra, kẻ bỏ huyện đường về vườn đó cũng không tự xem việc nhẩn nha hái cúc bên rào (thái cúc đông lí hạ) ngôi nhà nhà mình là cao nhã. Đọc thiên tạp văn của Lỗ Tấn, độc giả không hiểu vì sao nhà văn đang từ chuyện nhà ông ông ở, vườn ông ông cuốc lại kéo nhập vào chuyện thuê nhà có hàng rào trồng hoa cúc? [1]. Độc giả đều biết câu thơ của Đào Tiềm mà Lỗ Tấn dẫn trên chính là câu mở đầu của bài 85 Nguyễn Thị Mai Chanh và Lê Thời Tân Khất Thực nổi tiếng. Đọc một lượt bài thơ này, ta thấy khó mà nói đó là lời của một “người say”: “Cơ lai khu ngã khứ, Bất tri cánh hà chi; Hành hành chí tư lí, Khấu môn chuyết ngôn từ; Chủ nhân giải dư ý, Di tặng khỉ hư lại; Đàm hài chung nhật tịch, Thương chí triết khuynh bôi; Tình hân tân tri hoan, Ngôn vịnh toại phú thi; Cảm tử Phiếu Mẫu ý, Quý ngã phi Hàn tài; Hàm trấp tri hà tạ, Minh báo dĩ tương di” (Đói khát xô xui ta ra khỏi nhà, Không biết đến đâu đã là đâu; Bước lần tới ngôi làng, Gõ cửa rồi mà không biết nói sao; Chủ nhân biết ý ta, Mang đồ ra cho khiến việc đến xin không uổng công; Nói chuyện tương đắc quên ngày sắp tối, Rượu rót đầy cốc cốc liền vơi; Vui mừng vì thêm người bạn mới, Tức cảnh viết thành bài thơ; Cảm cái ý Phiếu Mẫu cứu khốn của người mà thẹn ta không có cái tài của Hàn Tín; Mang ơn không biết cảm tạ ra sao, Chỉ biết cầu quỷ thần báo đáp!) [3]. Huống nữa, thực tế là không cứ “cùng đáo thấu đỉnh, sầu đắc yếu tử đích nhân” (nghèo rớt mồng tơi, sầu đến chết người) thì chắc chắn không còn “nhàn tình dật chí lai trước thư” (có nhã hứng sáng tác). Sự thực thì bao kẻ nhàn tình dật chí mà không hẳn đã muốn cầm đến cây bút. Ngược lại, biết bao trước tác để đời lại thường được viết ra trong cảnh “cùng đáo thấu đỉnh, sầu đắc yếu tử”. Hàn Dũ trải cảnh cùng, viết văn làm thơ và nói “bất bình tắc minh”; Tư Mã Thiên gặp cảnh sầu muộn soạn Sử kí để đời. Lỗ Tấn há chẳng biết đó chính là những điều mà tiền nhân gọi là “bất bình tắc minh”, “tàng chi danh sơn,... truyền chi kì nhân”. Tô Đông Pha đi đày nói thơ văn “cùng tắc hậu công”. Có thể nói, hàng loạt tác phẩm lớn của tác gia Trung Hoa từ Sử kí (Tư Mã Thiên), Nho lâm ngoại sử (Ngô Kính Tử),Hồng lâu mộng (Tào Tuyết Cần). . . đều là tác phẩm của những kẻ lâm cảnh cùng quẫn sầu đau cả. Gào thét và Bàng hoàng của chính Lỗ Tấn cũng là sản phẩm của cảnh huống tương tự. Thực ra, việc Đào Tiềm cày lấy thóc ăn khác chi việc Lỗ Tấn sống bằng ngòi bút. Khi cuộc vận động Ngũ Tứ bắt đầu cũng là lúc văn hào từ biệt thôn trấn, chuyển cả đại gia đình lên Bắc Kinh sống đời công chức. Kể từ đó, quê nhà của ông, dùng đúng đầu đề một thiên truyện nổi tiếng của nhà văn, đã trở thành Cố hương. Chỉ đến mười năm cuối đời, Lỗ Tấn mới không còn thu nhập từ tiền đi dạy hay lương công chức (Lỗ Tấn từng đảm nhận một số chức vụ quan trọng - không muốn gọi ông là “quan” thì cũng phải thừa nhận ông từng là viên chức cao cấp của chính quyền thời Dân Quốc) hoàn toàn sống bằng ngòi bút. Mười năm cuối đời (1926 - 1936), Lỗ Tấn chuyển tới Thượng Hải và sống trong một tô giới lớn (Shanghai International Settlement, thành lập khoảng những năm 40 thế kỉ XIX). Môi trường hành chính - chính trị đặc thù của tô giới bảo hộ việc viết lách cũng như an toàn nhân thân cho Lỗ Tấn. Từ một góc độ nào đó mà nói, ấy cũng là “ẩn cư” và cuộc sống của ông lúc đó khá phong lưu. Thực tế cho thấy, đời ông là một cuộc tị nạn từng chặng một: bỏ Thiệu Hưng đi Nam Kinh, Bắc Kinh; rời Bắc Kinh đi Quảng Châu; rồi bỏ ra Thượng Hải. Rốt cuộc, Lỗ Tấn đâu có trụ lại ở Bắc Kinh hay Quảng Châu - những nơi được xem là đầu sóng ngọn gió của phong trào hành động lúc bấy giờ. Tất nhiên, hai thiên tạp văn thể hiện tập trung hai nhận xét của Lỗ Tấn về Đào Tiềm mà bài viết đã tập trung phân tích trên đây viết cách nhau cả mười năm trời (1925 - 1935). Và dĩ nhiên đó không phải là toàn bộ ý kiến của Lỗ Tấn về Đào Tiềm. Trong quãng thời gian ấy, ông còn nhắc đến Đào Tiềm trong vài ba lần khác. Chẳng hạn, trong bài nói chuyện học thuật tại Quảng Châu (tháng 9/1927) nhan đề “Mối quan hệ giữa dược liệu, rượu và văn chương cùng phong độ Ngụy - Tấn” [5], Lỗ Tấn cho rằng, Đào Tiềm có phong cách tự nhiên, trọng yên bình. Đồng thời Lỗ Tấn cũng nhắc nhở các nhà phê bình nên chú ý thích đáng tới tinh thần quan tâm chính sự, xã hội trong thơ Đào Tiềm. Theo ông, chính khuynh hướng “tầm chương trích cú” phiến diện của các nhà phê bình đã khiến cho người đời có ấn tượng sai lạc rằng Đào Tiềm là thi nhân “siêu thoát” yêu chuộng nhàn tĩnh, mà quên đi rằng Đào Tiềm cũng bộc lộc trong thơ tâm tư ưu thời và phê phán thế cuộc tích cực [1]. Chúng ta dễ dàng đồng ý với Lỗ Tấn về điểm này. Và chúng ta cũng có thể cho rằng, 86 Xem lại ý kiến của Lỗ Tấn đối với Đào Tiềm (qua phân tích vài thiên tạp văn của tác giả) nhận xét của Lỗ Tấn về Đào Tiềm trên kia không phải là hoàn toàn tiêu cực, không hề làm ảnh hưởng tới đức thanh cao của bậc hiền nhân. 3. Kết luận Trên thực tế, việc so chuyện cuộc đời hai con người cách nhau hàng thế kỉ kể cũng có phần khập khiễng. Huống nữa, tục ngữ Trung Quốc có câu, tạm dịch: “Mỗi nhà đều có cuốn kinh khó đọc” (gần ý “Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh” của tiếng Việt)! Tri nhân luận thế, luận thế tri nhân, ấy đều là việc không tránh được ít nhiều tình cảm chủ quan. Lỗ Tấn có nói đại ý, Đào Tiềm có vẻ “tĩnh mục” (an tĩnh hiền hòa của Bồ Tát) mà cũng có vẻ “nỗ mục” (trừng mắt căm giận của Kim Cương). Và điều đó khiến cho thi nhân này trở nên vĩ đại. Chúng ta không ngại bổ sung, sự vĩ đại cũng còn biểu hiện ở chỗ chừng mực, không dễ dãi hiền hòa mà cũng không căm giận thừa thãi. Đánh giá tiền nhân dĩ nhiên còn khó ở chỗ giữ được chừng mực vậy. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Lỗ Tấn, 1981. Thả Giới Đình Tạp Văn Nhị Tập in trong Lỗ Tấn Toàn Tập. Nhân dân Văn học Xuất bản xã (bản tiếng Trung). [2] Tiêu Thống biên tuyển, 1986. Chiêu Minh Văn Tuyển. Thượng Hải Cổ tịch Xuất bản xã (bản tiếng Trung). [3] Vương Dao biên chú, 1957. Đào Uyên Minh Tập Chú. Nhân dân Văn học Xuất bản xã (bản tiếng Trung). [4] Lỗ Tấn, 1981. Hoa Cái Tập in trong Lỗ Tấn Toàn Tập. Nhân dân Văn học Xuất bản xã (bản tiếng Trung). [5] Lỗ Tấn, 1981. Tập Ngoại Tập Thập Di Bổ Biên in trong Lỗ Tấn Toàn Tập. Nhân dân Văn học Xuất bản xã (bản tiếng Trung). ABSTRACT Revising lu xun’s criticism on Tao Yuanming (by Analyzing Some of Lu Xun’s Miscellanea) 1Nguyen Thi Mai Chanh và 2Le Thoi Tan 1Faculty of Philology, Hanoi National University of Education 2Faculty of Social, Hanoi Metropolitan University Tao Yuanming (365 – 427) is considered as among the first poetry hermits, the pioneer of Fields and Gardens poetry. His style is spare and limpid, both in poetry and daily life, which has had a great impact on many generations of Chinese poets. Lu Xun (1881 – 1936) once complimented Tao Yuanming for such style and reminded the literature critics to pay more attention to the political and social issues stated in Tao Yuanming’s poems. According to Lu Xun, some critics just focused on hackneyed clichés, which made readers have the unilateral idea about Tao Yuanming as a poet of salvation rather than an active social critic. In fact, such social criticism in Tao Yuanming’s poetry made him a great influencer. However, in some other discussions, Lu Xun expressed less positive opinions on Tao Yuanming. This article studies some of Luxun’s miscellanea to recognize the great mind of Tao Yuanming, the author of “Guiqu Lai Ci”. Keywords: Lu Xun, Tao Yuanming, Fields and Gardens poetry, hermit, Wander in the Scream, Guiqu Lai Ci. 87
File đính kèm:
- xem_lai_y_kien_cua_lo_tan_doi_voi_dao_tiem_qua_phan_tich_vai.pdf