Về các phức hợp được chuyển nghĩa để chỉ tính chất của hoạt động nói năng trong tiếng Việt

Tóm tắt: Trong báo này, trên cơ sở khái niệm khung của lý thuyết ngôn ngữ

học tri nhận, chúng tôi mô tả đặc điểm ngữ nghĩa của các phức hợp được

chuyển nghĩa để chỉ tính chất của hoạt động nói năng, một tiểu nhóm các

ngữ vị từ được chuyển nghĩa để chỉ hoạt động nói năng trong tiếng Việt,

trong đó chú trọng đến: sự toả tia ngữ nghĩa phản chiếu sự chuyển di ý niệm

của các yếu tố vốn chỉ tính chất của các phạm trù khác được mở rộng mạng

lưới để chỉ tính chất của hoạt động nói năng, các ý nghĩa liên hội làm nền

cho việc hiểu các phức hợp này.

pdf8 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 298 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Về các phức hợp được chuyển nghĩa để chỉ tính chất của hoạt động nói năng trong tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
n 
tả trước cảnh huống bất thường, trớ trêu. 
Trong cảm nhận của người Việt, khét được xếp vào phạm vi đánh giá tiêu cực, gây khó 
chịu về mặt khứu giác. Khi chuyển khung chỉ hoạt động nói năng, sự đánh giá tiêu cực 
được lưu giữ. Khét chỉ tiếng xấu, tiếng dữ lan truyền cùng với tên tuổi của một ai đó, 
thường là những tên tội phạm, những kẻ nắm quyền đã làm điều ác, dẫn đến sự chết 
chóc, đau đớn, mất mát cho người khác trên một phạm vi rộng. 
Khéo trong nghĩa gốc được người Việt cảm nhận theo nghĩa tích cực, ngược lại với 
vụng. Tuy nhiên trong cách nói phái sinh khéo mồm, nó lại có thể mang ý đánh giá 
không mấy tích cực. Khi cá nhân bị đánh giá là Chỉ được cái khéo mồm thì đó là người 
không chân thành, không thật lòng, chỉ nói hay ở cửa miệng. Cũng bị đánh giá tiêu cực 
nhưng vụng miệng lại gắn với đặc tính không khéo, không biết cách nói năng, cư xử, 
làm mất lòng người khác. 
Mau trong mau mồm, mau miệng, mau mồm mau miệng không phản ánh tốc độ cấu âm, 
mà phản ánh tốc độ ứng đối trong nói năng, hành xử, gắn với hoạt động tinh thần của 
người nói. Trong tâm lý của người Việt, họ có cái nhìn thiện cảm với người mau mồm 
mau miệng, coi đó là người xởi lởi, vui vẻ. 
76 LÊ THỊ CẨM VÂN 
Trong dài dòng, dài trước hết chỉ độ dài vật chất của lời nói dưới hình thức chữ viết trên 
mặt giấy. Thực tế, các dòng chữ kế tiếp nhau trên trang giấy, nhưng trong tình huống 
này, thuộc tính số lượng không được đưa ra cận cảnh. Sự cố định hoá lời nói dưới hình 
thức chữ viết cho phép người bản ngữ hình dung về sự chiếm giữ trong không gian với 
thuộc tính nổi trội theo chiều dọc của tờ giấy là dài. Chiều rộng gần như nhất quán theo 
khổ giấy, chính vì vậy nó không được lưu tâm khi người Việt ý niệm hoá. Cơ chế ẩn dụ 
đưa đến kết quả một ý niệm về lời nói tồn tại dưới hình thức chữ viết, xét trong không 
gian. Cơ chế hoán dụ mở rộng phạm vi ứng dụng của ý niệm (cả âm thanh lẫn chữ viết), 
chỉ sự nhiều lời một cách rườm rà, vô ích. Trong khi đó hướng toả tia ngữ nghĩa của dài 
trong dài mồm lại gắn với sự chú ý về sự thay đổi hình dáng của miệng, môi khi nói 
năng. Hình dáng mồm như vậy được xem là xấu; hành vi nói năng đi liền với nó được 
đánh giá là tiêu cực, không lịch sự (dài mồm ra cãi). 
Trong phức hợp kín tiếng, kín nhẽ, có thể nhận thấy các thuộc tính tương đồng giữa ý 
niệm không gian và ý niệm nói năng khi kín toả tia ngữ nghĩa. Tương tự như cạn lời, tri 
giác vật chứa – vật được chứa đựng được lưu giữ khi kín chuyển sang khung mới.Vật 
chứa lúc này tương ứng với miền suy tư cá nhân; vật chứa kín là không để lộ ra bất cứ 
chuyện gì, thông tin gì (kín tiếng). Trong phức hợp kín nhẽ, hướng toả tia của kín là chỉ 
tính chất chặt chẽ, không sơ hở trong nói năng khiến cho người khác không thể bắt bẻ, 
chê trách. Như vậy, cùng một ý niệm gốc, cùng toả tia sang cùng một phạm trù nhưng 
vẫn có sự phân biệt tinh tế các thuộc tính giữa hai ý niệm trong cách dùng phái sinh của 
cùng một từ. 
Thuộc tính số lượng của lời nói, hành vi nói được đưa ra cận cảnh trong các cách nói 
kiệm lời, ít lời, nhiều lời, lắm điều, lắm mồm, lắm mồm lắm miệng, vừa mồm. Với kiệm 
lời, tính chất ít về số lượng vật thể được sử dụng trong nét nghĩa gốc của kiệm được giữ 
lại và được ứng dụng cho một hoạt động mang tính tinh thần. Các phức hợp lắm điều, 
lắm mồm, lắm mồm lắm miệng chủ yếu được dùng để mô tả hành vi nói năng của nữ 
giới; đối tượng phản ánh của nó là người ngoa ngoắt, không đáng tin, không nên gần. 
Phức hợp vừa mồm có tiền giả định rằng một ai đó nói nhiều quá mức cần thiết và 
không nên, nó luôn xuất hiện trong lời nhắc nhở không nên nói nhiều, nói quá lời. Như 
vậy các biểu thức nói trên chuyển tải một chuẩn định về lượng trong nói năng gắn với 
sự đánh giá khắt khe của người Việt. Người Việt coi ít nói là tốt, nói nhiều là không tốt, 
thậm chí nguy hại. Nhận thức này được đút rút thành kinh nghiệm ứng xử và đánh giá 
người khác trong hoạt động giao tiếp. 
Hoạt động nói năng còn được người Việt phản ánh thông qua các yếu tố vốn có nghĩa 
gốc chỉ khối lượng của vật thể. Trong cách nói nặng lời, nhẹ lời, nặng và nhẹ không còn 
có nghĩa là khối lượng của sự vật. Cái được đưa ra cận cảnh lúc này là cách nói năng 
trong tương quan tác động của nó đối với người nghe. Nhẹ lời là lối nói nhẹ nhàng, dễ 
tiếp nhận, không gây mất thể diện của người nghe khi trách cứ, khuyên bảo. Nó cho 
thấy sự lựa chọn cách nói, nội dung nói có tính chủ ý của người nói. Ngược lại, nặng lời 
là hiện tượng có những lời lẽ gay gắt quá đáng. Nó tác động mạnh theo chiều hướng xấu 
VỀ CÁC PHỨC HỢP ĐƯỢC CHUYỂN NGHĨA ĐỂ CHỈ TÍNH CHẤT 77 
tới tâm lý người nghe, khiến người nghe khó chịu, căng thẳng, v.v. Khi nặng lời, người 
nói có thể có chủ ý, cũng có thể không kiểm soát được hành vi, thái độ của mình. 
Những phân tích về các phức hợp trên cho thấy: 
- Để phản ánh tính chất của hoạt động nói năng, tiếng Việt sử dụng các yếu tố từ vựng 
toả tia từ các từ chỉ sức mạnh thể chất của con người (bạo, mạnh), thuộc tính sinh học 
của sinh thể (non, già), kĩ năng lao động (khéo, vụng), tốc độ của vật, hành động, quá 
trình (mau), kích thước của vật thể (dài, to, vừa), số lượng (kiệm, ít, lắm, nhiều), trọng 
lượng (nặng, nhẹ), một số đặc tính hoá lý khác của thực thể (độc, dẻo, dịu, cạn, khét, 
kín, hở). Các từ trên khi chuyển khung đã mở rộng mạng lưới ngữ nghĩa để chỉ các 
thuộc tính đa dạng của hoạt động nói năng. 
- Chỉ một số thuộc tính đối lập trong miền không gian vật lý được toả tia ý niệm để chỉ 
các thuộc tính đối lập trong hoạt động nói năng (như nặng, nhẹ, ít, lắm, nhiều). Sự lựa 
chọn thuộc tính nào là tuỳ thuộc vào sự tri giác về điểm tương đồng giữa hai (miền) ý 
niệm của người bản ngữ. 
- Người Việt có sự đối lập giữa sự nói năng và các hoạt động khác, xét ở tính hiệu quả. 
Do vậy họ có cách nói Chỉ được cái bạo mồm/ mạnh miệng/ dẻo mồm/ khéo mồm. Họ 
đánh giá thấp những người chỉ được cái ăn nói mà không có việc làm mang lại hiệu quả 
thực tế. 
- Các phức hợp trên cho thấy một phần trong cách người Việt nhìn nhận, đánh giá về 
một trong các hoạt động xã hội căn bản của con người: hoạt động nói năng, với hai xu 
hướng: đánh giá về hành vi nói năng của người nói và đánh giá về tác động của hành vi 
nói năng đến tâm lý tiếp nhận của người nghe. 
- Ngoài phản ánh thuộc tính của hoạt động nói năng, các phức hợp nói trên còn bao hàm 
các thông tin ngữ dụng, văn hoá quy định cách sử dụng chúng trong tiếng Việt. Việc 
nắm các thông tin đó rõ ràng là cần yếu để có thể hiểu và sử dụng đúng các phức hợp 
hữu quan. 
3. KẾT LUẬN 
Việc phân tích các phức hợp được chuyển nghĩa để chỉ tính chất của hoạt động nói năng 
trong tiếng Việt cho thấy: có một sự chuyển đổi khung mang tính hệ thống từ miền 
không gian vật lý sang miền không gian tinh thần chỉ hoạt động nói năng trong tiếng 
Việt; mỗi phức hợp là một tổng thể hai yếu tố: A – biểu thức ẩn dụ, biểu đạt bằng ngữ vị 
từ trạng thái, B – biểu thức hoán dụ hoặc là một biểu thức chỉ sản phẩm của hoạt động 
nói năng - biểu đạt bằng danh ngữ, B là yếu tố neo kết A và khung hoạt động nói năng, 
mã hoá, định vị khung sự tình, xác định cách hiểu đối với toàn phức hợp. Để phản ánh 
tính chất của hoạt động nói năng, tiếng Việt sử dụng các yếu tố từ vựng toả tia từ các từ 
chỉ sức mạnh thể chất của con người; thuộc tính sinh học của sinh thể; kĩ năng lao động; 
tốc độ của vật, hành động, quá trình; chuyển động của thực thể; kích thước, số lượng, 
trọng lượng và một số đặc tính hoá lý khác của thực thể. Các phức hợp này thường bao 
hàm trong chúng sự đánh giá nghiêng về phía tiêu cực đối với hành vi nói năng của 
78 LÊ THỊ CẨM VÂN 
người nói và về tác động của hành vi nói năng đến tâm lý tiếp nhận của người nghe, 
chứa đựng các thông tin ngữ dụng, văn hoá làm nền cho việc hiểu và sử dụng chúng. 
Cách tiếp cận phân tích thành tố trước đây đối với từ đã loại bỏ các tri thức văn hoá gắn 
kết với từ, chính vì vậy mà không thể giải thích tường tận cho những khác biệt về nghĩa 
của từ xuất hiện do sự kết hợp của nó với từ khác. Khái niệm khung của ngôn ngữ học 
tri nhận khắc phục được những hạn chế này, mở ra cơ hội giải thích cho các quá trình 
kết hợp ý niệm và sự đồ chiếu của chúng lên bình diện ngôn ngữ. Nó ủng hộ cho quan 
điểm tri nhận luận rằng ngay cả đơn vị cơ bản như từ cũng không phải là một thực thể 
hữu hạn do sự biến thiên vô hạn trong sự trải nghiệm của con người cũng như khả năng 
vô hạn trong việc đồ chiếu ý niệm của họ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] David Lee (2001). Dẫn luận Ngôn ngữ học tri nhận (Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn 
Hoàng An dịch, 2016), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 
[2] Nguyễn Thị Ngân Giang (2014). Những tổ hợp từ cố định biểu thị hoạt động nói năng 
trong tiếng Việt, Kỷ yếu công trình khoa học, Trường Đại học Thăng Long. 
[3] Cao Xuân Hạo (1998/2003). Tiếng Việt - Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, 
NXB Giáo dục. 
[4] Huỳnh Thị Như Huyền (2005). Cấu trúc ngữ nghĩa và giá trị ngữ dụng của từ chỉ 
hoạt động nói năng trong tiếng Việt, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học, 
Đại học Huế. 
[5] Hoàng Phê (chủ biên) (2009). Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, NXB Đà 
Nẵng. 
[6] Lê Thị Cẩm Vân (2017). Về các danh ngữ được chuyển nghĩa để chỉ hoạt động nói 
năng trong tiếng Việt, in trong Nghiên cứu và dạy học Ngữ văn trong bối cảnh đổi 
mới giáo dục, NXB Đại học Huế. 
Title: THE SEMANTIC-SHIFTED COMPLEXES DESCRIBING THE PROPERTY OF 
SPEECH ACTIVITY IN VIETNAMESE 
Abstract: In this paper, on the notion of frame of cognitive linguistic theory, we describe the 
semantic characteristics of the semantic-changed complexes that mean properties of speech 
activity. The complexes belong to a subgroup of predicates that semantic shift to the speech 
activity category in Vietnamese. We will focus on the radiality of the metaphorical expressions, 
and the connotations as the basis for understanding the complexes. 
Keywords: Complex, meaning shift, the property of speech activity, frame. 

File đính kèm:

  • pdfve_cac_phuc_hop_duoc_chuyen_nghia_de_chi_tinh_chat_cua_hoat.pdf