Vấn đề hội nhập quốc tế qua lịch sử phê bình Truyện Kiều

Tóm tắt:

Lịch sử nghiên cứu, phê bình Truyện Kiều từ đầu thế kỷ XX, khi người Việt Nam tích cực hội nhập quốc tế cho đến nay cho thấy nhiều vấn đề quan trọng và thú vị xét cả về lý luận và phương pháp nghiên cứu. Nghiên cứu Truyện Kiều ở Việt Nam hơn một trăm năm qua diễn ra đồng hành cùng các lĩnh vực xã hội khác nhau, phát triển dưới ảnh hưởng, tác động khác nhau của các lý thuyết văn học. Bài viết tập trung giới thiệu tổng quan các lý thuyết này theo chiều dài lịch sử lý luận phê bình Truyện Kiều trong suốt hơn một thế kỷ qua.

pdf5 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 304 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Vấn đề hội nhập quốc tế qua lịch sử phê bình Truyện Kiều, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
ớng khác, từ góc nhìn của kiểu kể chuyện mới mà 
Nguyễn Du đã thực hiện. Theo ông, các nhân vật Truyện 
Kiều được kể và tả theo một kiểu nghệ thuật tự sự mới, 
chính nghệ thuật kể chuyện mới của Nguyễn Du đã xây 
dựng họ thành những “con người cô độc”. Phan Ngọc nhận 
xét: “Họ thuộc một phạm trù nhân vật mới mà tiểu thuyết 
truyền thống không hề biết đến, bởi vì con người trong văn 
học cũ là con người của một cương vị xã hội và sống trong 
một tập thể: một bề tôi, một hòa thượng, một người dân 
công xã. Con người trong Truyện Kiều cô đơn ngay cả khi 
họ đối diện với người khác. Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, Thúc 
Sinh, Hoạn Thư đều có một điểm giống nhau, không có ở 
các nhân vật trong tiểu thuyết cũ. Họ đều sống với nội tâm 
của mình, cho nên khi giao tiếp với mọi người nhiều khi họ 
vẫn tự tách mình ra, theo đuổi những ý nghĩ riêng mà người 
khác không chấp nhận được. Họ là những con người của 
dục vọng, dục vọng hưởng thụ cuộc sống như ở Thúc Sinh, 
dục vọng quyền lực như ở Hoạn Thư, dục vọng biểu lộ khí 
phách anh hùng như ở Từ Hải, dục vọng gặp người mơ ước 
như ở Kim Trọng, dục vọng khẳng định giá trị của mình 
như ở Thúy Kiều. Cho nên để cho cuộc sống bình thường có 
thể tiếp tục, nhiều khi họ phải nín nhịn, tránh né, đóng kịch. 
Mỗi người như thế vừa là họ, vừa không phải là họ. Họ chỉ 
là họ trong cái hoàn cảnh họ tự thực hiện được mình. Còn 
ngoài ra, tính cách của họ vẫn là một sự chắp nối gượng ép 
giữa sự thích nghi bắt buộc với thực tế và đời sống riêng tư 
của nội tâm” [6]. 
Con người cô độc đồng thời thoát khỏi kiểu “con người 
nhất phiến”, và từ đây, con người tự tách mình ra làm hai, 
phân thân. “Kết quả là con người ở đây vừa biến đổi đa 
dạng, khó nắm bắt, nằm ngoài suy luận của ta, nhưng lại 
vừa là thống nhất hữu cơ, kỳ ảo, song vẫn là hiện thực” [6]. 
Cách phân tích nhân vật Truyện Kiều từ góc nhìn của 
nghệ thuật kể chuyện lại góp phần giải thích các ý kiến mâu 
thuẫn, đa chiều của giới nghiên cứu trong đánh giá nhân 
vật của tác phẩm, kể cả nhân vật Thúy Kiều. Suy luận theo 
hướng tiếp cận hình thức của Phan Ngọc, chính nghệ thuật 
kể chuyện đã tạo nên đặc điểm con người phân thân ở các 
nhân vật Truyện Kiều, và đến lượt mình, tính chất phân thân 
khiến cho nhân vật đa diện, phức tạp và làm cho người đọc 
phân hóa ý kiến. 
Tiếp cận thi pháp học 
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã thành công và khá 
nhuần nhuyễn đưa thi pháp của giới nghiên cứu Xô Viết 
ứng dụng vào nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam. Ông 
đã trình làng ấn tượng hai công trình Thi pháp thơ Tố Hữu 
và Thi pháp Truyện Kiều. Đối với nhân vật trong Truyện 
Kiều, ông đề nghị tiếp cận từ góc độ quan niệm nghệ thuật 
của Nguyễn Du về con người: “Truyện Kiều không chỉ có 
chữ tài chữ tâm mà còn có chữ thân”. Điểm mới này của 
hướng tiếp cận thi pháp đối với nhân vật Truyện Kiều sẽ 
giúp chúng ta lý giải các ý kiến có tính xung đột nhau về 
nhân vật Truyện Kiều. Trần Đình Sử viết: “Tâm là phần 
“hình nhi thượng”, là đời sống tinh thần, là lương tâm, nghĩa 
vụ, trách nhiệm, đạo lý. Thân là “hình nhi hạ”, là cái phần 
vật chất duy nhất của con người, là phần hữu hạn, bé nhỏ dễ 
hư nát và đau đớn nhất của bất cứ ai. Thân cũng là phần của 
vô thức, của bản năng con người. Thân là phần riêng tư nhất 
mà người ta có thể liều, có thể giết, có thể cho. Thân là phần 
quý giá nhất, có thân mới có người, có vui sướng, có phúc 
phận Ý thức về thân chính là ý thức về cái phần cá nhân 
riêng tư nhất, thực tại nhất của con người” [7]. Cách tiếp cận 
Truyện Kiều này đặt tâm ngang hàng với phần hữu thức và 
thân ngang hàng với phần vô thức, tiềm thức của phân tích 
tâm lý, lại cấp cho chúng ta một điểm nhìn mới đối với sự 
đa diện, phong phú, phức tạp của con người trong Truyện 
Kiều - điều dẫn đến những xung đột giữa các ý kiến đọc và 
hiểu nhân vật Truyện Kiều. 
Trần Đình Sử cũng phân tích thi pháp kể chuyện của 
Nguyễn Du: “Điều sáng tạo mới mẻ của Nguyễn Du là biến 
nhân vật chính từ con người đạo lý thành con người tâm 
lý nhưng do sự ràng buộc của ý thức phong kiến còn nặng 
nề, ý thức cá nhân mới chỉ được biểu hiện ở khía cạnh “xót 
thân, đau lòng”. Yếu tố đạo lý, nghĩa lý vẫn còn nguyên, 
nhưng trọng tâm đã chuyển sang mặt tâm lý: Nguyễn Du 
muốn cho thấy con người đạo lý ấy đã khổ đau như thế nào. 
Chính điều này đã làm Nguyễn Du đổi thay điểm nhìn trần 
thuật: không phải kể chuyện từ bên ngoài, mà kể theo cái 
nhìn của nhân vật, từ tâm trạng nhân vật mà nhìn ra” [7]. 
Con người đạo lý được những người như Minh Mạng ca 
ngợi song cũng vẫn có những khiếm khuyết khiến nhiều nhà 
nho như Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng lên án. Con người tâm 
lý bộc lộ chân thực chiều sâu nội tâm khiến nhiều nhà nho 
chia sẻ, đồng cảm, tán thành. 
47
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
Tiếp cận từ lý thuyết giải cấu trúc 
Chủ nghĩa cấu trúc (structuralism) vốn hình thành từ 
ngôn ngữ học cấu trúc, nhìn thế giới phân đôi theo nguyên 
lý nhị nguyên luận, ví dụ các cặp phạm trù nội dung/hình 
thức, bộ phận/toàn thể, cái biểu đạt/cái được biểu đạt, thiện/
ác... theo đó, thường có một mặt giữ địa vị áp đảo với mặt 
kia: ví dụ, nội dung quyết định hình thức, thiện thắng ác 
Nhiệm vụ của giải cấu trúc (deconstruction) là phân tích cấu 
trúc đó, chỉ ra sự cân bằng giữa hai thành tố đối lập, là phân 
tích tính chỉnh thể của đối tượng vốn bị phân đôi đó. Trong 
nội dung có hàm chứa hình thức, trong hình thức có tính nội 
dung, trong cái thiện có thể có ác (xấu), trong cái ác có thể 
có hạt giống thiện. 
Quan niệm truyền thống Việt Nam về con người thể hiện 
trong truyện cổ tích và nhiều truyện thơ Nôm thường dựa 
trên sự phân tuyến nhân vật thành hai loại đối lập: thiện/ác, 
chính/tà, đó là biểu hiện dễ nhận thấy của tư duy cấu trúc. 
Hai loại nhân vật này đối kháng và loại trừ nhau. Sự đối 
kháng giữa chúng được bảo đảm bằng hệ thống thi pháp 
miêu tả nghiêm nhặt. Ví dụ, về ngoại hình, nhân vật chính 
diện thường đẹp (vẻ đẹp này cũng có khi ẩn kín và chỉ bộc 
lộ khi cần thiết như chàng Sọ Dừa trong truyện cùng tên), 
trong khi đó, nhân vật phản diện thường có ngoại hình xấu. 
Về tâm lý, đạo đức, nhân vật chính diện tốt đẹp hơn nhân 
vật phản diện.
Mặc dù những nhà văn lớn có thể không hề biết thế nào 
là cấu trúc hay giải cấu trúc, song sáng tác của họ đều thể 
hiện tinh thần giải cấu trúc mà nhà nghiên cứu, phê bình 
phải nhìn thấy. Nam Cao nhìn thấy ở những con người bị 
xã hội ném ra bên lề như Chí Phèo, Thị Nở những hạt giống 
làm người lương thiện. Và ông không triệt để kỳ thị Bá Kiến 
như một số người đọc hiện đại vẫn nghĩ: ông lưu ý chính Bá 
Kiến đã cấp cho Chí Phèo mảnh vườn, nhờ đó mà Chí có 
chỗ sinh sống; dù ngôi nhà của Chí chắc chỉ như túp lều 
song chắc chắn nhờ đó mà Chí Phèo khác hẳn Thạch Sanh 
thuở nào ngày đi kiếm củi, đêm về ngủ tại miếu sơn thần. 
Nguyễn Du là một nhà văn lớn, Truyện Kiều của ông 
mang tinh thần giải cấu trúc mỹ học Nho giáo truyền thống 
khá mạnh mẽ. Thúy Kiều không phải là bậc thánh, người 
con gái này thông minh, sắc sảo, tài hoa nhưng cũng có lúc 
bị mắc lừa; cô có lúc cầm dao tự tử để bảo toàn phẩm tiết 
song khi không chết thì sau đó, lại chấp nhận cuộc sống 
muôn vàn cay đắng; cô được giáo dục về lễ nghĩa nên có 
lúc rụt rè e lệ trước Kim Trọng, song lại có lúc mạnh mẽ, 
táo bạo xăm xăm băng lối vườn khuya một mình đến với 
người yêu. Người anh hùng Từ Hải nhưng cũng lãng mạn, 
đa tình Nhân vật Hoạn Thư vốn bị không ít người đọc 
bày tỏ thái độ gay gắt song nhìn cho kỹ, nói như Thích Nhất 
Hạnh, đây là nhân vật tiêu biểu cho thuyết nhân quả, tuy 
Hoạn Thư đánh ghen, hành hạ Thúy Kiều song nhờ biết 
điểm dừng, biết trân trọng tài tình của Thúy Kiều nên đã 
được Thúy Kiều tha bổng tại phiên tòa công lý. Nguyễn Du 
có cái nhìn mới, ông đưa con người vốn được thể hiện theo 
hình mẫu thánh nhân - quân tử về mặt đất, về phạm trù con 
người đời thường, con người phong phú, phức tạp, không 
dễ gì phân tuyến. Mọi cách đọc theo nguyên lý cấu trúc áp 
dụng vào nhiều nhân vật Truyện Kiều khó thích hợp. 
Vài lời kết 
Nghiên cứu văn học trung đại nói chung, Truyện Kiều 
nói riêng ở Việt Nam hơn một trăm năm qua diễn ra trong 
bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Đồng hành 
cùng các lĩnh vực xã hội khác nhau, nghiên cứu văn học và 
nghiên cứu Truyện Kiều đều phát triển dưới ảnh hưởng, tác 
động khác nhau của các lý thuyết văn học, triết học khác 
nhau mà một số lý thuyết được chúng tôi dẫn ra ở trên chỉ là 
ví dụ. Ở đây, chúng tôi không có ý định xếp hạng lý thuyết 
nào cao hơn, lý thuyết nào thấp hơn. Không hẹn mà gặp, 
nhiều lý thuyết nhưng đều góp phần lý giải, tuy sự lý giải 
rất khác nhau, các ý kiến trái chiều, mâu thuẫn nhau về các 
nhân vật trong Truyện Kiều, giúp các thế hệ độc giả ngày 
càng hiểu sâu sắc hơn kiệt tác văn học này. Tin tưởng rằng, 
quá trình hội nhập này sẽ được các thế hệ nhà nghiên cứu, 
phê bình văn học tiếp tục duy trì và phát huy. Việc làm rõ 
hơn các hệ thống lý thuyết trên trong nghiên cứu văn học 
nước nhà, đặc biệt là những kiệt tác văn học đã làm được 
gì, cần làm gì thêm sẽ được nghiên cứu ở một số công trình 
tiếp theo. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Xuân Lít (biên soạn) (2007), Hai trăm năm nghiên cứu - 
bàn luận Truyện Kiều, NXB Giáo dục, tr.396-1688.
[2] Phạm Đan Quế (biên soạn) (2002), Bình Kiều, vịnh Kiều, bói 
Kiều, NXB Thanh niên, tr.53. 
[3] Trương Tửu (2007), Nguyễn Du và Truyện Kiều, in lại trong 
Tuyển tập nghiên cứu, phê bình, NXB Lao động và Trung tâm Ngôn 
ngữ văn hóa Đông Tây, tr.260-288. 
[4] Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII 
đến hết thế kỷ XIX), NXB Giáo dục, tr.396-415.
[5] Советская энциклопедия, Москва (1987), Литературный 
энциклопедический словарь (Bách khoa thư văn học), mục từ 
Типическое (Cái điển hình), tr.440. 
[6] Phan Ngọc (2001), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong 
Truyện Kiều, NXB Thanh niên, tr.119. 
[7] Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, dẫn theo Nguyễn 

File đính kèm:

  • pdfvan_de_hoi_nhap_quoc_te_qua_lich_su_phe_binh_truyen_kieu.pdf