Vai trò ca nương trong nghệ thuật ca trù

TÓM TT:

Bài viết nêu bật tầm quan trọng của vai

trò nguời ca nương (đào nương) gắn liền với

nguồn gốc lịch sử nghệ thuật ca trù, và ảnh

hưởng đến trào lưu thưởng thức nghệ thuật

này. Qua vai trò đào nương, ta hiểu được

quy luật tồn tại và tiến hóa của nghệ thuật ca

trù, từ trào lưu đại chúng, ca trù tồn tại trong

hát cửa đình, hát khao vọng song song với

trào lưu hát nhà tơ, ca quán; và xác định

được phương hướng giữ gìn, phát huy nghệ

thuật ca trù.

pdf12 trang | Chuyên mục: Nghệ Thuật Biểu Diễn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 484 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Vai trò ca nương trong nghệ thuật ca trù, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
 một bài thơ rồi tự cầm chầu thưởng thức nó 
giữa chốn ñông người ñều là những tài tử giai 
nhân, khác loại công chúng bình thường. Khoái 
cảm ñược cộng hưởng niềm vui, cùng chia sẻ 
những giá trị văn hóa “vừa tư tưởng, vừa âm luật 
hỗn hợp với nhau, vừa văn chương vừa mỹ thuật 
cùng nhau ñiều hòa, vừa tài tử, vừa giai nhân 
cùng nhau gặp gỡ, cùng nhau sánh cạnh mà chia 
39
 Trích câu thơ của Dương Khuê trong bài Gặp ñào Hồng, 
ñào Tuyết. 
40
 Những bài hát cổ hiện còn lưu truyền ñều mang nặng sắc 
thái này [ðỗ Bằng ðoàn 1960: “Quá trình tiến hóa của ca trù 
và ảnh hưởng của ca trù ñối với văn hóa dân tộc”, TC.Bách 
khoa, số 132, tr.28]. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 16, SOÁ X2- 2013 
Trang 103 
vui” [Nguyễn Văn Ngọc, dẫn theo Nguyễn ðức 
Mậu 2010: 53]. ðể ñảm ñương vai trò ấy, ả ñào 
phải có kỹ năng tổng hợp, ngoài kỹ năng nghề ca 
xướng, ả ñào còn phải học chữ ñể có thể ñọc và 
hiểu thơ, ñể hát cho ñúng ý tứ của tác giả. “Xem 
như kỹ nữ các nước, trong nghề hương phấn ca 
ngâm ñều có mùi pha văn học cả, vì nước nào 
cũng có một thứ chữ, một thứ sách vở riêng của 
nước ấy, càng làm kỹ nữ càng phải giao thiệp 
nhiều, càng phải dò dẫm xem lấy những chuyện 
khóc cười, chuyện xa gần, ñể làm cái tài liệu tiếp 
khách” [Nguyễn ðôn Phục 1923]. Theo Nguyễn 
Xuân Diện, việc trí thức hóa nghề ả ñào là một 
biệt lệ chưa từng có ở những người phụ nữ bình 
dân. Chính cái tri thức ñã làm nên nét văn hóa ả 
ñào: sang trọng, ñài các, phong lưu, khu biệt với 
các kỹ nữ tầm thường khác 
Vai trò “nàng thơ” của ả ñào cũng tựa như ca 
nương của ca Huế, “câu ca xứ Huế, cô ñầu tỉnh 
Thanh”. Cùng chung một nguồn gốc nhã nhạc 
cung ñình, nghệ thuật trong dinh phủ của các 
chúa Nguyễn ở ðàng Trong phát tán thành một 
lối gọi là ca Huế (gồm cả ca và ñàn) hay là “lối 
hát ả ñào của người Huế”. Ca Huế tương ñồng 
với ca trù về lối chơi văn chương, tri âm tri kỷ, sự 
trau chuốt của giọng hát, ngón ñàn và không gian 
thính phòng, một lối chơi của các ông hoàng bà 
chúa. Như ả ñào, ca nương của ca Huế cũng giữ 
một vai không thể thay thế. Nhưng, ca nương của 
ca Huế gắn liền với văn hóa cố ñô Huế nên mang 
bản sắc ñịa phương rõ nét hơn ả ñào. Hình thức 
“mượn tiếng mỹ nhân ñể thưởng ngoạn nghệ 
thuật” của hát ả ñào còn dễ khiến người ta liên 
tưởng geisha Nhật Bản hay kisaeng Hàn Quốc 
như “ả ñào Nhật Bản, ả ñào Hàn quốc”. Tương tự 
ca quán, nhà geisha hay tửu quán, trà ñộng của 
kisaeng, ñều là không gian phòng, không có 
những tiết mục sôi ñộng như ca vũ tạp kỹ, chỉ 
thuần túy là không gian trò chuyện, luận ñàm văn 
chương, ... Vì thế, nhạc cụ cũng khá tinh giản, ả 
ñào chỉ dùng ñôi phách tre; geisha ngoài cây ñàn 
shanmisen còn dùng sáo trúc và mấy chiếc trống, 
trống nhỏ tsutsumi vác lên vai, trống nhỡ ôkawa 
kê trên ñùi, còn trống lớn taikô ñặt cạnh người 
diễn; kisaeng dùng ñàn gayageum (12 dây) và 
ñàn geomungo (6 dây). 
Trong vai trò khơi nguồn sáng tạo nghệ thuật, ả 
ñào góp phần làm phong phú các ñiệu hát ca trù 
bằng cách bắt chước ñiệu hát Huế, ñiệu hát xẩm, 
ñiệu hát phường chèo, làm thêm “gia vị” cho 
cuộc hát. Công lao tiếp biến của ả ñào ñã quyết 
ñịnh tên gọi cho ñiệu hát, như một số ñiệu nếu 
kép hát thì gọi là hà nam, là hát trai, còn ñào hát 
thì gọi là hát nói, hát gái. Tương tự, các kisaeng 
Hàn Quốc cũng có công thiết lập trường phái 
nghệ thuật bản ñịa như thơ sijo (thơ thời ñiệu), 
nghệ thuật hội họa (kisaeng Juk Hyang- thế kỷ 
XIX), nghệ thuật múa kiếm (kisaeng Unsim- thế 
kỷ XVIII), thậm chí các kisaeng còn tham gia viết 
lời và diễn xuất những vở pansori (truyện kể ñại 
chúng); các geisha Nhật Bản ñã có công phát 
triển nghệ thuật kịch kabuki, họ còn viết hồi ký, 
nhờ ñó mà người phương Tây mới biết về thân 
phận làm geisha Hiểu ñược ñiều này, chúng ta 
mới thấm thía câu nói: “Hàng trăm tiên sinh ñạo 
học khuyên ñời, không bằng sức một con hát41”. 
Ngoài ra, vai trò của nhan sắc ả ñào cũng ñóng 
góp không nhỏ trong việc tạo nên sức hấp dẫn của 
nghệ thuật ca trù trong hát chơi. Giới quý tộc, trí 
thức thích ñi hát và có cảm tình gắn bó với nghệ 
thuật là vì cái ñẹp của ả ñào. “ðào nương thuở ấy 
hễ tóc ñen mườn mượt, tóc dài thậm thượt thì 
ñược người yêu. Thường thì ñào nương hát về 
ñêm, người nghe vì thế phải trằn trọc suốt canh 
thâu” [dẫn theo Trần Văn Khê 1960: 71]. Sắc 
ñẹp của ñào nương là một mảng ñề tài lớn trong 
các sáng tác của văn nhân, như các bài: Tặng cô 
ñầu Văn của Dương Tự Nhu; Tiểu ca cơ của 
Phạm ðình Hổ; Long thành cầm giả ca của 
Nguyễn Du; thậm chí bài Bỡn cô ñào già của 
Nguyễn Công Trứ còn ñem cái duyên của ả ñào 
41
 Nhận ñịnh của Trần Hồng Thụ, danh sỹ ñời Minh [ðàm 
Phàm 2004: 6] 
Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013 
Trang 104 
ra ñể ñùa cợt tình tứ cho thấy sự cảm tình ñặc 
biệt và sự ñề cao vai trò của nhan sắc ả ñào. 
Kết luận 
Từ những nội dung trình bày, chúng tôi rút ra 
một số kết luận sau: 
1. Hai trào lưu nghệ thuật trên ñều có sự ñóng 
góp thiết yếu của thanh sắc ả ñào. Trong lịch sử, 
với vai trò nghệ nhân (con hát) và vai trò người 
phục vụ (kỹ nữ). Văn hóa ả ñào luôn thích nghi 
với những biến ñổi của phong khí thời ñại. Thời 
ñại chuộng nhạc thì họ ñàn ca, hát xướng, thời ñại 
chuộng thơ thì họ có thể làm bạn thơ với văn 
nhân, thời ñại chuộng sắc thì họ hóa thân như kỹ 
nữ, “làng chơi làm sao thì nhà nghề làm vậy”. 
2. Qua vai trò ả ñào, nghệ thuật ca trù tồn tại 
song hành hai ñặc tính vừa bác học vừa dân gian. 
Ngay trong thời ñại tính bác học trông có vẻ “lấn 
át tính dân gian” (từ sau thế kỷ XIX), hát cửa 
ñình vẫn là một hoạt ñộng văn hóa tồn tại và bám 
rễ lâu bền trong ñời sống nhân dân ở các làng xã 
cho ñến những năm ñầu thế kỷ XX. 
3. ðể khôi phục những tinh hoa của ca trù, ta 
cần phải khu biệt ñào nương ngày nay với ả ñào 
ngày xưa. Vai trò ñào nương ngày nay chỉ là vai 
trò của cô ca sỹ hát lại các bài hát xưa, hoặc hát 
những bài mới do những khán giả yêu ca trù sáng 
tác, nhưng, không tạo ra ñược không gian trữ tình 
của “tài tử giai nhân cùng nhau hội ngộ, cùng 
nhau sánh cạnh chia vui”. Các ca nương trong các 
câu lạc bộ ca trù hiện nay chỉ ñóng một vai rất 
hạn chế của ca trù hát chơi trong ca quán ngày 
trước, chưa nói ñến vai trò phục vụ tín ngưỡng 
hay các sự kiện văn hóa lễ hội mà xưa kia các ñào 
nương ñã ñảm nhiệm. 
4. Mặt khác, ñể nghệ thuật ca trù tồn tại ñược 
trong ñời sống ñương ñại thì vai trò ñào nương 
ngày nay cần phải ñược ñại chúng hóa, ñào 
nương không thể chỉ ñóng một vai “nghệ nhân 
giữ gìn vốn cổ”, mà còn phải ñảm ñương nhiều 
vai như một ngôi sao, một nghệ sỹ thực thụ trên 
các phương tiện truyền thông, ñiện ảnh, ðồng 
thời, các nhà ñạo diễn và các nhà thiết kế chương 
trình nên khuyến khích những ngôi sao hóa thân 
vào vai ả ñào hiện ñại, như trường hợp Madona 
hóa thân làm geisha chẳng hạn. 
The Role of Female Vocalists in Catrù Art 
• Nguyen Hoang Anh Tuan 
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM 
ABSTRACT: 
This paper highlights the importance of the 
role of female vocalists (ñào nương) 
associated with the historical origins of Catru 
art, and their influence on the trend to enjoy 
this kind of art. Through female vocalists’ 
role, existence and evolution rules of Catru 
are thoroughly understood. From popular 
trend, Catru exists in the form of communal 
house theater in the village (hát cửa ñình), 
banquet theater (hát khao vọng), etc. going 
hand-in-hand with madarin home theater (hát 
nhà tơ), bar (ca quán), and determining the 
orientation to preserve and promote Catru 
art. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 16, SOÁ X2- 2013 
Trang 105 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Will DURANT 2004: Lịch sử văn minh Ấn 
ðộ (Nguyễn Hiến Lê dịch), Nxb VHTT, 
Cty VH Phương Nam phát hành, TpHCM, 
556tr. 
[2]. Will DURANT 2006: Nguồn gốc văn minh 
(Nguyễn Hiến Lê dịch), Nxb VHTT, 
TpHCM, 204tr. 
[3]. Dương Quảng Hàm 1968: Việt Nam văn 
học sử yếu, BGD-Trung tâm học liệu xuất 
bản, SG., 496tr. 
[4]. ðàm Phàm 2004: Lịch sử con hát (Cao Tự 
Thanh dịch), Nxb Tổng hợp Tp.HCM, 324 
tr. 
[5]. ðỗ Bằng ðoàn- ðỗ Trọng Huề 1994: Việt 
Nam ca trù biên khảo, Nxb Tp.HCM, 678 
tr. 
[6]. Hát cửa ñình Lỗ Khê 1980, (Nhiều tác giả), 
Sở VHTT Hội Văn nghệ H. xb. 
[7]. Hồ sơ ứng cử quốc gia 2006 (phần Phụ 
lục): Hát ca trù người Việt, 7/2006 ñệ trình 
UNESCO xét duyệt di sản phi vật thể 
truyền khẩu nhân loại, Bộ Văn hóa thông 
tin, H., 216 tr. 
[8]. Lê Văn Hảo 1963: “Vài nét về sinh hoạt của 
hát ả ñào trong truyền thống văn hóa Việt 
Nam”, TC ðại học số 29, tr. 718 – 750 
[9]. Nguyễn ðôn Phục 1923: “Khảo luận về 
cuộc hát ả ñào”, Nam phong tạp chí, số 
70/1923, tr.277-289 
[10]. Nguyễn ðức Mậu 2003 (gt&bs): Ca trù 
nhìn từ nhiều phía, Nxb VHTT, H., 620tr. 
[11]. Nguyễn ðức Mậu 2010: Ca trù Hà Nội 
trong lịch sử và hiện tại, Nxb H., 700tr. 
(khổ A4) 
[12]. Nguyễn Xuân Diện: “ði tìm vẻ ñẹp của 
nghệ thuật ca trù”, 
[13]. Nguyễn Xuân Diện 2007: Lịch sử và nghệ 
thuật ca trù, khảo sát nguồn tư liệu tại 
Viện nghiên cứu Hán – Nôm [chuyên khảo 
trên cơ sở luận án Tiến sỹ Ngữ văn Hán 
Nôm], Nxb Thế Giới H. 
[14]. Phạm ðình Hổ 1989: Vũ trung tùy bút, 
(bản dịch của ðông Châu Nguyễn Hữu 
Tiến, Nguyễn Quảng Tuân khảo ñính và 
chú thích), Nxb Trẻ, Hội NCGDVH 
TP.HCM, tr. 42, 43, 46 & 47 
[15]. Phan Kế Bính 1972: Việt Nam phong tục, 
[“Bộ quốc sử - Contribution à l’histoire 
d’Annam”, trích ðông Dương tạp chí số 
24- 49, 1913- 1914], Phong trào văn hóa 
xb, SG., 366 tr. 
[16]. Tchya 1959: “Ca kịch Việt Nam”, Phổ 
thông Tạp chí văn hóa (chủ bút Nguyễn 
Vỹ) số 25, tr.46- 50 [Cơ sở biên mục dựa 
vào số 1(15/11/1958)] 
[17]. Trần Văn Khê 1960: “Hát ả ñào”, TC. 
Bách khoa số 81, 82, & 83 
[18]. Trần Văn Khê 2000: Trần Văn Khê và âm 
nhạc dân tộc, Nxb Trẻ, Tp. HCM. 
[19]. Vũ Bằng 1971: “Hát ả ñào- lịch sử ra sao? 
Ông tổ là người nào? Mà ả ñào, cô ñầu và 
nhà tơ có khác nhau không?”, TC. Văn 
học, số 138, tr.3- 5 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_ca_nuong_trong_nghe_thuat_ca_tru.pdf