Thực trạng di cư tự phát của người Mông ở Đắk Lắk và những vấn đề đặt ra
Trình trạng di cư tự phát của người Mông ở tỉnh Đắk Lắk từ năm 1975 đến nay đã và đang tác động, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội, môi trường sinh thái, văn hoá, trật tự an
ninh xã hội ở Đắk Lắk nói riêng và các tỉnh Tây Nguyên nói chung. Nguyên nhân chính khiến người
Mông di cư là vì đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn, thu nhập bình quân đầu người thấp do thiếu
điều kiện sản xuất, thiếu đất canh tác, thiếu nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Trong khi đó, địa
bàn Tây Nguyên nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng có điều kiện sống thuận lợi hơn, đặc biệt đó là
vùng đất đỏ ba zan màu mỡ, đất rộng, người thưa, tài nguyên rừng phong phú. Sự di cư tự phát của
người Mông đã dẫn đến nhiều vấn đề nảy sinh, phức tạp, cụ thể: Di cư tự phát làm cho các kế hoạch
phát triển kinh tế, xã hội tại các địa phương bị đảo lộn; gia tăng nạn phá rừng làm rẫy, hủy hoại tài
nguyên môi trường; làm cho tình hình an ninh, trật tự ở địa phương, kể cả nơi xuất cư và nhập cư
thêm phức tạp, dễ tạo kẽ hở cho kẻ gian và những thế lực thù địch lợi dụng; Để giải quyết các vấn
đề này Chính phủ đã có chủ trương giải quyết tình trạng dân di cư tự phát thể hiện trong các Chỉ thị
số 660/TTg vào ngày 17-10-1995; Chỉ thị số 39/2004/CT TTg ngày 17 -11 -2004 và Quyết định số
193/2006/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24 - 8 – 2006
chưa được thẩm định, phê duyệt. Hiện nay, do thiếu vốn, nên tỉnh Đắk Lắk chỉ mới triển khai 11/15 dự án theo kế hoạch. Tuy chưa hoàn thành, nhưng theo đánh giá của UBND tỉnh Đắk Lắk năm 2014, đời sống đồng bào di cư tự phát vào sinh sống trong các vùng dự án đã có nhiều chuyển biến tích cực, bình quân mỗi hộ gia đình được cấp 400 m2 đất sản xuất, 40% số hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh, 100% hộ nghèo được chăm lo khám chữa bệnh miễn phí; trẻ em trong độ tuổi đều được đến trường, chất lượng dạy và học được nâng lên. Tại các vùng nông thôn thực hiện 11 dự án ổn định đồng bào di cư tự phát, tỉnh cũng đầu tư xây dựng được gần 225 km đường giao thông nông thôn, hàng chục cầu, cống các loại, hàng trăm phòng học các cấp, 6 công trình thuỷ lợi, trạm xá, điện chiếu sáng từng bước phục vụ tốt yêu cầu sản xuất, sinh hoạt cho đồng bào. Vì vậy, song song với việc ổn định đời sống cho đồng bào di cư tự phát, tỉnh Đắk Lắk cũng đã chỉ đạo các địa phương kịp thời phát hiện số dân di cư mới đến địa phương, lâm phần thuộc đơn vị quản lý và có biện pháp ngăn chặn. Đồng thời, chỉ đạo các Sở, Ngành chức năng, các huyện, thị xã, thành phố triển khai thực hiện dự án rà soát, bổ sung quy hoạch bố trí, ổn định dân cư trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2013 - 2015 và định hướng đến năm 2020, trong đó có các dự án quy hoạch bố trí, ổn định Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 26 Số 23 - Tháng 9 năm 2018 dân di cư tự phát; chỉ đạo các địa phương nắm chắc tình hình phát triển sản xuất, đời sống của đồng bào ở các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, tổ chức tuyên truyền, giáo dục, vận động cộng đồng dân cư chấp hành nghiêm các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những quy định của địa phương. Điều đáng nói là hàng năm xây dựng kế hoạch sắp xếp dân cư, căn cứ kinh phí đầu tư của Trung ương, tỉnh Đắk Lắk cần chỉ đạo thực hiện tốt việc lồng ghép các nguồn vốn của các chương trình, dự án trên cùng địa bàn, bố trí vốn phù hợp với tiến độ của dự án đã được phê duyệt để giải quyết cơ bản kịp thời nhu cầu về hạ tầng thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân như: Giao thông, khai hoang xây dựng cánh đồng ruộng nước, điện, nước sinh hoạt, các công trình y tế, giáo dụctheo định hướng xây dựng nông thôn mới, tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc yên tâm định cư, sớm ổn định đời sống, phát triển sản xuất tại các vùng quy hoạch.Tỉnh Đắk Lắk cũng kiến nghị Chính phủ cùng các bộ, ngành Trung ương cần tăng ngân sách đầu tư cho chương trình bố trí, sắp xếp dân di cư tự phát ở Tây Nguyên nói chung, Đắk Lắk nói riêng, xem xét cho tỉnh Đắk Lắk được chuyển đổi mục đích sử dụng đất lâm nghiệp sang đất nông nghiệp và đất thổ cư ở những nơi dân di cư đến ngoài kế hoạch đã ổn định nơi ở và sản xuất. Hạn chế không cấp đất ở, đất sản xuất (tiến đến cấp đất có thu tiền), hỗ trợ các chính sách an sinh xã hội đối với dân di cư tự phát sau thời điểm 31/12/2013, nhằm tránh những so bì giữa các nhóm dân tộc, cũng như không tạo “động cơ” cho dân di cư tự phát di cư nội vùng và lợi dụng chinh sách để trục lợi. Các tỉnh có dân di cư tự phát phải có biện pháp tuyên truyền để ngăn chặn tình trạng dân di cư tự phát. Những vùng đồng bào có nguyện vọng ra đi, thì tỉnh đó phải xây dựng kế hoạch báo cáo Chính phủ và các bộ, ngành để bố trí theo kế hoạch của Nhà nước. Đứng trước thực trạng dân di cư tự phát vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi, Chính phủ đã chủ trương phải giải quyết tình trạng dân di cư tự phát. Điều đó thể hiện trong các Chỉ thị số 660/TTg vào ngày 17- 10-1995, Chỉ thị số 39/2004/CT TTg ngày 17 -11 -2004 và Quyết định số 193/2006/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24 - 8 - 2006 về phê duyệt chương trình bố trí dân cư các vùng thiên tai, đặc biệt khó khăn biên giới, hải đảo, di cư tự phát, xung yếu và rất xung yếu của rừng phòng hộ, khu bảo vệ nghiêm ngặt của rừng đặc dụng giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2015. Theo tinh thần các chỉ thị và nghị quyết trên, các địa phương ở Tây Nguyên trong đó có tỉnh Đắk Lắk đã bố trí, sắp xếp lại dân di cư tự phát theo các dự án quy hoạch. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay tình trạng dân di cư tự phát vẫn tiếp diễn, việc ổn định, bố trí sắp xếp lại dân di cư tự phát vào các vùng dự án chưa làm được nhiều. Vì vậy, trong thời gian tới, cần quan tâm áp dụng các biện pháp chủ yếu sau: Một là, Nhà nước đầu tư, hỗ trợ lớn vào các tỉnh miền núi phía Bắc là địa bàn xuất cư để phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số có điều kiện sản xuất và cải thiện đời sống tại quê nhà. Đây là biện pháp cơ bản nhất xóa bỏ tận gốc di cư tự phát. Hai là, trước mắt, xác định những vùng quá khó khăn và dân có nguyện vọng di cư thì chủ động bố trí, thực hiện di dân tái định cư theo quyết định193/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Ba là, đối với dân di cư tự phát đã vào Tây Nguyên thì các địa phương nhập cư cố gắng tiến hành quy hoạch, xây dựng dự án ổn định, bố trí sắp xếp lại dân di cư tự phát vào nơi ở mới theo tinh thần Quyết định 193 nêu trên. Nhà nước tiếp tục đầu tư và hỗ trợ từ ngân sách để thực hiện các dự án này. Đầu tư này rất lớn cần Nhà nước cung cấp đủ và kịp thời, đồng thời lồng ghép với các chương trình 134, 135, 30A.... để hỗ trợ dân di cư tự phát. Bốn là, đối với những nơi không có khả năng thu nạp dân di cư tự phát thì kiên quyết đưa họ về quê cũ có sự hỗ trợ nhất định của Nhà nước để họ tái lập nghiệp ở quê nhà. Năm là, nâng cao trách nhiệm của chính quyền các tỉnh xuất cư trong việc quản lý dân cư không để dân di cư tự phát, đồng thời nâng cao trách nhiệm của chính quyền các tỉnh nhập cư về quản lý lãnh thổ của mình không để người di cư tự phát đến mà không hay biết. Sáu là, chính quyền nơi xuất cư và chính quyền nơi nhập cư phải hợp tác chặt chẽ trong việc giải quyết tình trạng di cư tự phát, đặc biệt trong trường hợp đưa người di cư tự phát trở về quê cũ. Bảy là, Nhà nước cần ban hành Quy chế di dân cư tự phát hợp hiến và hợp pháp, bao gồm các nguyên tắc, điều kiện trách nhiệm và nghĩa vụ... để các công dân tuân thủ khi tiến hành di cư tự phát. Tám là, tuyên truyền giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc nhận thức để tự giác chấm dứt cuộc di cư tự phát trái phép, có hại cho đất nước và cho bản thân, chấp hành đúng chính sách của Nhà nước, làm tròn nghĩa vụ người công dân. Chín là, nghiêm trị những hành vi phạm pháp luật của người di cư tự phát như chặt phá rừng, buôn gỗ lậu, chống đối hành hung cán bộ thi hành công vụ... do những phần tử xấu xúi giục và tiếp tay cho các hoạt động phi pháp của người di cư tự phát. /. * Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp quốc gia: “Một số vấn đề cơ bản trong phát triển dân tộc Mông ở Việt Nam”. Mã số: CTDT.14.17/16-20. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 27Số 23 - Tháng 9 năm 2018 Tài liệu tham khảo [1] Yang Dao, (1992), Người Hmông: Những truyền thống bền vững, trong Văn hoá các dân tộc Lào, Trung tâm nghiên cứu cộng đồng Đông Nam Á xuất bản, Caliornia, USA. Dẫn theo Vương Duy Quang, (2005), Văn hoá tâm linh của người Hmông ở Việt Nam: Truyền thống và hiện tại, NXB. Văn hoá Thông tin & Viện Văn hoá, Hà Nội; [2] Đậu Tuấn Nam, (2013), Di cư của người Hmông từ Đổi mới đến nay, NXB. Chính trị Quốc gia; [3] Vương Duy Quang, (2005), Văn hoá tâm linh của người Hmông ở Việt Nam: Truyền thống và hiện tại, NXB. Văn hoá Thông tin & Viện Văn hoá; [4] Nguyễn Văn Thắng (Chủ biên, 2009), Giữ “Lý cũ” hay theo “Lý mới”: Bản chất của những cách phản ứng khác nhau của người Hmông ở Việt Nam với ảnh hưởng của đạo Tin Lành, NXB. Khoa học Xã hội; [5] Nguyễn Thanh Xuân, (2004), Việc truyền đạo và theo đạo Tin Lành trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên và Tây Bắc, Báo cáo tại Hội nghị Thông báo Dân tộc học, Viện Dân tộc học SPONTANEOUS MIGRATION SITUATION OF MONG ETHNIC GROUP IN DAK LAK PROVINCE AND ISSUED MATTERS Vo Thi Mai Phuong - Hoang Huu Binh Nguyen Hong Vi - Hoang Le Nhat Abstract: The situation of spontaneous migration of Mong ethnic group in Dak Lak province from 1975 to present has been influencing socio-economic development, ecological environment, culture, social security order in Dak Lak province in particular and the Central Highlands provinces in general. The main cause for migration of Mong ethnic group is that their economic life meeting many diffculty, per capita income is low due to lack of production conditions, lack of cultivated land and lack of water for production and daily life. Meanwhile, the Central Highlands in general and Dak Lak province in particular have more favorable living conditions, especially the fertile red basaltic soil area, extensive land, sparse people, rich forest resources. The spontaneous migration of Mong ethnic group led to many problems arising and very complicated. Specifically, the spontaneous migration makes the socio-economic development plans in the localities turned upside down; increasing deforestation and degradation of natural environment resources, making the situation of security and order in the locality, including the place of emigration and immigration more complicated, easy to create loophole for the crooks and the hostile forces to take advantage,... In order to deal with these issues, the Government has advocated the settlement of spontaneous migration as reflected in the Instruction No. 660 / TTg on 17th October, 1995; Instruction No. 39/2004 / CT-TTg on November 17th , 2004 and Decision No. 193/2006 / QD-TTg of the Prime Minister dated 24th August 2006. Keywords: Spontaneous migration; Spontaneous migration of Mong ethnic group in Dak Lak province; Main cause for spontaneous migration of Mong ethnic group in Dak Lak; Issued matters.
File đính kèm:
- thuc_trang_di_cu_tu_phat_cua_nguoi_mong_o_dak_lak_va_nhung_v.pdf