Thơ ca Hmông và những mạch nguồn cảm hứng
TÓM TẮT
Thơ ca Hmông đã khắc họa một cách rõ nét và sinh động cuộc sống và số phận của dân tộc
Hmông từ quá khứ đến hiện tại, từ số phận cá nhân đến số phận cộng đồng. Thông điệp nghệ thuật
mang tính tư tưởng đó được biểu hiện thông qua những phức điệu cảm hứng- những phức điệu tâm
hồn Hmông, từ cảm hứng cảm thương- bi kịch đến cảm hứng trữ tình- ngợi ca và cảm hứng suy
tư- chiêm nghiệm. Chúng ta nhận thấy trong thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại một diện
mạo tâm hồn Hmông đầy cá tính và bản sắc.
... Cuộc cách mạng tháng Tám vĩ đại đã giải phóng cuộc đời của cả dân tộc Việt Nam. Đồng bào miền núi nói chung và đồng bào dân tộc Hmông nói riêng cũng đã thoát khỏi cảnh đời tăm tối để bắt tay vào xây dựng một cuộc sống mới, một tương lai mới cho dân tộc mình. Lớp thế hệ nhà thơ Hmông đầu tiên được ra đời và lớn lên trong cuộc sống hoà bình, hiểu sâu sắc giá trị của cuộc sống, của hai chữ tự do. Chính vì vậy mà cảm hứng nổi trội nhất trong thơ ca dân tộc Hmông thời kỳ hiện đại là cảm hứng ngợi ca cuộc sống mới do Cách mạng, Đảng và Bác Hồ đem lại. Thơ ca Hmông thời kì hiện đại là một bài ca ca ngợi cuộc sống và tình yêu mà biểu hiện sâu sắc và chân thực nhất là lòng biết ơn. Dường như, với các tác giả người Hmông, khi đặt bút làm thơ, mục tiêu đầu tiên là thể hiện được tấm lòng của mình, của dân tộc mình, lòng biết ơn đối với Cách mạng đã khai sinh cho người Hmông có được một cuộc đời mới. Hùng Đình Quí có các bài thơ Người Mông có chữ (1968), Ơn Đảng (1969), Nhớ Bác Hồ (1969), Ánh đuốc trên đỉnh Vần Chải, Việt Bắc ngày nay (1972); Giàng A Của có bài thơ Có Cụ Hồ về; Vừ Thị Dưa có bài Nhớ đến Chính phủ; rồi Giàng Páo Ly, Giàng A Páo, Mùa A Sấu, Sùng Nhìa Tú... đều có những bài thơ nói lên lòng biết ơn sâu nặng của dân tộc Hmông đối với Đảng, với Chính phủ và Bác Hồ. Dân tộc Hmông là một dân tộc có tính cộng đồng rất cao. Có lẽ do sống khu biệt trên các đỉnh núi hẻo lánh nên tình cảm cộng đồng được cộng hưởng, được nở rộ như những bông hoa dưới ánh mặt trời. Không khí vui tươi, sôi nổi rộn rã ở miền Bắc trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội đã lan toả đến tận các bản làng heo hút của người Hmông. Cuộc sống dần văn minh, xoá bỏ những hủ tục cũ kỹ, lạc hậu là đối tượng miêu tả, biểu hiện của các nhà thơ Hmông. Những thửa ruộng bậc thang lúa vàng trĩu hạt; những mái trường có con em của người Hmông theo học, như những “bầy ong tung tăng đi hút nhị hoa”; Những chính sách của Đảng tựa như những làn điệu dân ca bay bổng, lay động, thấm sâu vào tâm hồn người Hmông. Khắp nơi rộn rã không khí đổi mới vui tươi, tràn ngập niềm tin vào cuộc sống. Cảm giác lâng lâng của con người được giải phóng, được tự do thật là kì diệu, để người Hmông nhìn thiên nhiên cũng thấy có tâm hồn, có sự đồng điệu, say mê: Mặt trời nâng hoa mây/Bồng bềnh sáng núi đá (Mặt trời hoa mây - Giàng A Páo). Cuộc sống của người Hmông có sự bình yên, êm đềm, đẹp một cách lãng mạn. Chất lãng mạn ngấm sâu vào tim vào óc mỗi người để thăng hoa thành những tâm hồn nghệ sĩ. Trong thơ ca Hmông, Tiếng hát tình yêu (gầu plềnh) chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Đó là ánh trăng sáng lung linh trên bầu trời thơ ca, đẹp một cách huyền diệu. Chính cảm hứng trữ tình-ngợi ca đã làm cho những câu thơ có sức lay động và quyến rũ diệu kì, "có thể nằm không hổ thẹn trong những tuyển tập thơ hay của thế giới" (Chế Lan Viên). Tuy nhiên, cả trong cuộc sống và tình yêu, người Hmông đều hồn nhiên và mãnh liệt đến độ cực đoan. Đã sống- sống hết mình; đã yêu- yêu đến nồng nàn đam mê; đã ghét- ghét đến tận cùng xương tuỷ. Thơ ca Hmông là sứ giả trung thành cho việc bộc lộ những cung bậc và trạng thái tình cảm ấy: Gió về gió thổi lá cây lật lả lướt bên khe/ Nếu ta là hạt mưa hạt sương/ Ta xin tan trên bàn tay nàng; Đêm đã qua, sao lượn vòng đổi chỗ/ Ngày đã rạng, lối đi đã toe/ Ta lê bước về nhà/ mà hồn như còn ngủ ở thắt lưng em (Dân ca Hmông) Cuộc sống của người Hmông trên núi cao đơn sơ nhưng không đơn điệu, một phần cũng bởi người Hmông có đời sống tinh thần phong phú. Âm nhạc chính là một chất men say trong tâm hồn người Hmông. Người Hmông yêu âm nhạc bằng một tình yêu gần như là bản năng, đầy chất nghệ sĩ. Cuộc sống của đồng bào dân tộc Hmông không thể thiếu những tiếng khèn, tiếng đàn môi, kèn lá - những nhạc cụ quen thuộc và gần gũi của dân tộc Hmông. Chàng trai Hmông múa khèn tài hoa như những nghệ sĩ đích thực trong các buổi chợ phiên, những đêm trăng hay trong Nguyễn Kiến Thọ Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 199 - 204 203 các lễ hội “Gầu tào”: “Điệu khèn vui xóm núi/ Tiếng đàn môi giục lòng” (Giàng Xuân Hồ). Những thiếu nữ Hmông thả tâm tình trong tiếng đàn môi dìu dặt, trong tiếng kèn lá ẩn chứa những tâm sự vui buồn: “Nhớ buổi tiễn chân ta qua đồi/ Em ngắt lá thổi bài kèn réo rắt” (Dân ca Hmông). Âm nhạc Hmông không ưa sự quân bình mà ưa đi đến tận cùng của những cung bậc thanh âm, chót vót cao và thăm thẳm sâu. Có lẽ đó cũng chính là cá tính của một dân tộc chứa bao điều bí ẩn trong tâm hồn. Cuộc sống của người Hmông không thiếu sự thơ mộng đến lãng mạn, những chủ nhân của núi đá vùng cao có đời sống tinh thần phong phú, trước hết và trên hết, họ có một tình yêu nồng nàn. Từ những đỉnh núi - cao nguyên vừa hùng vĩ nên thơ vừa rất đỗi khắc nghiệt đã sinh ra những nhà thơ Hmông để cất lên những tiếng ca ca ngợi quê hương và tình yêu của mình:“Từ đá/Sinh ra những chàng thi sĩ/Hát ca về đất trời, tình yêu của mình”(Đá ở Sapa - Mã A Lềnh). Cảm hứng suy tư- chiêm nghiệm- biểu hiện của lối tư duy, cách diễn đạt mang đậm bản sắc Hmông. Nhìn chung, sau năm 1975 và nhất là sau Đổi Mới (1986), cùng với sự thay đổi lớn lao và nhanh chóng bộ mặt đời sống xã hội của đất nước, thơ ca dân tộc Hmông có sự chuyển đổi cơ bản về cảm hứng nghệ thuật. Nếu như ở các giai đoạn trước, cảm hứng cảm thương- bi kịch và cảm hững trữ tình- ngợi ca chiếm ưu thế chủ đạo, thì giai đoạn này, khi mối quan hệ giao lưu văn hóa giữa các dân tộc ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc, nhận thức của người Hmông ngày càng được nâng cao, những nhà thơ- sứ giả tâm hồn của người Hmông bắt đầu có những suy tư, chiêm nghiệm, có sự quan tâm hơn đến những vấn đề mang tính thế sự, và cả nhu cầu tự bộc lộ và khám phá bản thân.Thơ ca dân tộc Hmông đi vào chiều sâu trí tuệ bằng những suy nghĩ, cảm nhận mang dấu ấn cá nhân rõ rệt. Người Hmông là một dân tộc ưa triết lí, "trong thơ Hmông có yếu tố rất rõ của lí trí. Chữ lí là chữ thường thấy trong thơ Hmông. Người Hmông là ngưởi rất muốn biết rõ lí lẽ, phân biệt phải trái" [10]. Ngay từ trong mạch nguồn dân gian, chất suy tư, triết lí ấy đã được bộc lộ. Ta thường thấy trong dân ca Hmông những triết lí về cuộc đời: Đời người như củ cải phơi nắng, hay: Đời người như bóng râm từ từ ngả bên đồi, hoặc: Mình ơi!/ Sống là khổ đấy/ Chết là nát tan.. Sự suy nghiệm, triết lí đã trở thành một nét tính cách của người Hmông từ truyền thống, là cơ sở để tạo nên phức điệu cảm hứng suy tư- chiêm nghiệm trong thơ Hmông thời kì hiện đại. Mỗi nhà thơ có một cách suy tư, chiêm nghiệm riêng về thế sự, cuộc đời, và cách triết lí cũng rất riêng, độc đáo và đặc sắc. Nhà thơ Hùng Đình Quí trăn trở với những giá trị đạo đức truyền thống, những tinh hoa văn hoá của người Hmông đã được gìn giữ từ bao đời. Ông khuyên người Hmông phải biết sống thuỷ chung, tình nghĩa, không nên "tranh đục cũ người dùng/cướp dao mẻ người liếc". Ông khẳng định một chân lí vĩnh hằng trong quan niệm về sự sống và cái chết của "người Hmông mình" (pêz Hmông): Có chết, chết trên lưỡi sắc/ Chớ chết sau sống Dao. Ông cảnh tỉnh những người Hmông lầm đường, lạc lối, thiếu ý chí, nghị lực và niềm tin trong cuộc sống: Chỉ có con cóc mới đi không hết đường/ Trở về chết dưới bàn chân vợ. Mã A Lềnh suy tư về số phận và tương lai của dân tộc mình, để rồi chiêm nghiệm và khẳng định: Ở đâu có bầu trời/ đó là Tổ quốc. Ông bằng lòng và ca ngơi sự lựa chọn cuộc sống như là một nét đặc trưng riêng của dân tộc mình: Chiếc nôi êm là tảng đá giữa non ngàn. Ở đó, người Hmông thênh thênh sống, thênh thênh bộc lộ những vui buồn của mình. Bản lĩnh và ý chí chính là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Hmông. Hình ảnh người đàn ông Hmông với đôi chân trần đạp trên đá sắc và mái đầu trơ một chỏm đá hoang là sự bộc lộ sâu sắc bản lính và ý chí ấy. Tóm lại, thơ ca Hmông với những phức điệu cảm hứng nghệ thuật đã góp phần bộc lộ một cách sâu sắc và chân thực con người và cuộc sống của dân tộc Hmông trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định, như những lát cắt của Nguyễn Kiến Thọ Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 199 - 204 204 "điệu tâm hồn" Hmông trước hiện thực cuộc sống. Các phức điệu cảm hứng nói trên không tồn tại độc lập mà có sự đan xen, tiếp biến trên hành trình vận động từ quá khứ tới hiện tại. Mỗi giai đoạn lịch sử có một phức điệu cảm hứng chiếm vị trí chủ đạo, nhưng nhìn chung, sự đan xen và phối kết hợp các loại cảm hứng nói trên chính là sự khắc hoạ đầy đủ và sinh động nhất diện mạo tâm hồn của dân tộc Hmông, trong sự đa diện và với tất cả vẻ độc đáo và đặc sắc của nó. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Hoàng Phê, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2000. [2]. N. Pôxpôlôv chủ biên, Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội,1998. [3]. Phương Lựu chủ biên, Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội,1997. [4]. Hà Văn Thư, "Vài nhận định về văn học các dân tộc thiểu số từ cách mạng tháng Tám đến nay", Tạp chí Văn học, (6), 1966. [5],[6],[7],[8],[9]. Doãn Thanh, Dân ca HMông, Nxb Văn học, Hà Nội, 1984. SUMMARY HMONG POETRY AND THE SOURCES OF INSPIRATION Nguyen Kien Tho* College of Education – TNU Hmong poetry successfully portrays the life and fate of the Hmong people from the past to the present, and from the personal fate to the fate of the community. The artistic messages of thought which are expressed through the complex rhythms inspire the Hmong polyphonic soul, from inspiration compassion-tragedy to lyrical inspiration-praise and inspiring reflections-dream experiments. We find in poetry from traditional to modern Hmong the soul of the Hmong with full of personality and identity. Key words: The Hmong people, poetry, inspiration, innovative, modern,... * Tel: 0983 677111, Email: nguyenkientho@gmail.com
File đính kèm:
- tho_ca_hmong_va_nhung_mach_nguon_cam_hung.pdf