Tiểu thuyết "Giấc mộng con" của Tản Đà nhìn từ góc độ thể loại

Tản Đà là một trong những đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam đầu thế kỷ

XX lúc giao điểm nối giữa văn học Việt Nam trung đại và văn học Việt Nam hiện

đại. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã để lại nhiều tác phẩm độc đáo,

thể hiện được cá tính của bản thân. Ông cố gắng thử sức mình trong các thể

loại mới mà tiểu thuyết (theo lối viết phương Tây) là một trong số đó. Giấc mộng

con là tiểu thuyết đã cho thấy sự cố gắng cách tân thể loại của Tản Đà. Bài

nghiên cứu này sẽ tìm hiểu những ưu điểm và hạn chế của Tản Đà trong việc

cách tân thông qua phân tích các phương diện thời gian nghệ thuật, không gian

nghệ thuật và nhân vật

pdf11 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 326 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Tiểu thuyết "Giấc mộng con" của Tản Đà nhìn từ góc độ thể loại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
 Nhà văn chƣa 
có sự chú trọng với những nhân vật 
xuất hiện, đóng vai trò quan trọng 
trong những bƣớc ngoặt của cuộc đời 
nhân vật chính. Điều này cũng xảy ra 
với nhân vật Vinailles, ngƣời đƣa 
Khắc Hiếu sang Pháp và Woallak, 
nhân vật giúp Khắc Hiếu trốn thoát 
duy chỉ có nhân vật ông quan bác sĩ, 
nhân vật đƣa Khắc Hiếu đi chu du 
khắp nơi đã đƣợc chú tâm miêu tả 
hơn. Đó là một ngƣời đàn ông “đã 
ngoại 50, cáo hƣu về nhà để làm 
sách” (Tản Đà, 2002: 94), có mối quan 
hệ quen biết với ông Dravine. Độc giả 
cũng hiểu đƣợc sự quan tâm của ông 
quan bác sĩ với ngƣời An Nam qua 
các dòng đối thoại với nhân vật chính. 
Trong hành trình phiêu lƣu của 
Nguyễn Khắc Hiếu đã xảy ra một sự 
biến đó là vụ trộm tại tiệm vàng của 
ông Dravine mà anh là kẻ bị tình nghi 
số một. Tên trộm vắng mặt từ đầu vụ 
án và cho đến cuối cùng vẫn không 
xuất hiện, không đƣợc chỉ rõ. Nhân 
vật duy nhất có vai trò quan trọng 
trong một tác phẩm trinh thám là thủ 
phạm, cuối cùng không đƣợc làm rõ. 
Đồng thời, để làm nên một tiểu thuyết 
trinh thám, câu chuyện này còn thiếu 
hệ thống các nhân vật điều tra nhƣ 
cảnh sát, thám tử. Truyện chỉ đảm 
bảo có sự kiện vụ án xảy ra, kẻ bị tình 
nghi và cuối cùng vụ án đƣợc phá. 
Nói cách khác, nó chỉ đảm bảo đƣợc 
về mặt tổng thể khái quát chứ chƣa đi 
vào chi tiết, cụ thể. 
Nhân vật đƣợc Tản Đà chú trọng hơn 
cả là cô gái 17 tuổi Chu Kiều Oanh, 
con gái ông Chu Văn Lập, “ngƣời Sài 
Gòn, sang làm ăn buôn bán ở Đại 
Pháp đã hơn 20 năm” (Tản Đà, 2002: 
74). Cô đƣợc miêu tả là “dòng giống 
Lạc Hồng mà sinh trƣởng đất Đại 
Pháp; chữ Tây đã biết nhiều, còn 
đƣơng học chữ nho cũng thông hiểu 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (248) 2019 
56 
điển tích” (Tản Đà, 2002: 74), đƣợc 
cha mẹ yêu chiều hết mực. Thông qua 
các đối thoại, thƣ từ qua lại giữa Kiều 
Oanh và Khắc Hiếu cho thấy có sự 
đồng cảm, thấu hiểu không chỉ trong 
quan điểm sống, thế giới quan mà còn 
cả trong công việc văn chƣơng. Có 
phải chăng nhân vật Chu Kiều Oanh 
không chỉ là hồng nhan tri kỷ của 
Nguyễn Khắc Hiếu mà kỳ thực cũng 
chính là bóng hình ngƣời con gái lý 
tƣởng trong tâm khảm của nhà văn đa 
tình Tản Đà? Trên còn đƣờng tình 
duyên, Tản Đà từng gặp một cú sốc 
lớn khi chứng kiến cảnh ngƣời con gái 
mình yêu đi lấy chồng. Sau sự biến ấy, 
Tản Đà từng mất một thời gian để tìm 
lại sự cân bằng. Ngƣời vợ sau này của 
ông là do gia đình mai mối để giúp ông 
ổn định cuộc sống chứ không phải là 
bóng hồng ông thƣơng nhớ. Có lẽ bởi 
vậy mà trong lòng Tản Đà luôn chịu 
một ẩn ức. Hình ảnh Chu Kiều Oanh, 
một ngƣời con gái hoàn hảo từ nhân 
thân đến trí tuệ và tinh thần cũng 
chính là một niềm khao khát thầm kín 
mà Tản Đà đã ký thác vào đó. “Tản 
Đà vẫn sống tâm trạng của “khách 
phong lƣu”, “bậc tài danh” của thời đại 
trƣớc” (Phan Cự Đệ, 2013: 183). Với 
ông “ngƣời đàn bà lý tƣởng không 
phải chỉ là mỹ nhân mà còn là giai 
nhân” và ông “phân biệt yêu và lấy vợ” 
hết sức rõ ràng (Phan Cự Đệ, 2013: 
183). Có lẽ chính vì lẽ đó mà bóng 
hình ấy đã đổ dài trên các trang văn 
của Giấc mộng con. Sau này trong 
Giấc mộng con II (1932), nhân vật ấy 
lại một lần nữa xuất hiện cũng với vai 
trò là tri kỷ của Nguyễn Khắc Hiếu. 
Các nhân vật khác trong tiểu thuyết 
hầu hết chỉ đƣợc kể tên hoặc miêu tả 
về nghề nghiệp mà không có sự hình 
dung cụ thể nào. Tính cách, phẩm 
chất của các nhân vật trong Giấc 
mộng con đƣợc xác định thông qua 
các hành động, cách ứng xử của họ 
với nhân vật trung tâm và qua các đối 
thoại, trao đổi tƣ tƣởng, quan điểm 
với nhân vật chính. Điều đặc biệt là 
trong tiểu thuyết này không có nhân 
vật phản diện. Nhân vật tên ăn trộm 
thực sự của tiệm vàng Drayon lại 
không đƣợc chỉ đích danh, không 
đƣợc miêu tả. Các nhân vật lần lƣợt 
xuất hiện trong tiểu thuyết để phục vụ 
cho việc thúc đẩy hành trình phiêu lƣu 
của Nguyễn Khắc Hiếu cũng nhƣ để 
anh ta bộc lộ chí nguyện, tâm tình và 
lý tƣởng của chính mình. Chính trong 
lúc này, tiểu thuyết Giấc mộng con I 
với sự manh nha của một tiểu thuyết 
phiêu lƣu, thậm chí là trinh thám đã 
biến mất nhƣờng chỗ cho một tiểu 
thuyết luận đề, triết luận. 
3. GIẤC MỘNG CON NHƯ LÀ MỘT 
TIỂU THUYẾT LUẬN ĐỀ 
Về mặt kết cấu tổng thể, nhƣ chúng ta 
đã phân tích ngay từ đầu, Giấc mộng 
con có tố chất của một tiểu thuyết 
phiêu lƣu với biên độ không gian dịch 
chuyển hết sức rộng lớn, thời gian 
chu du của nhân vật khá dài (khoảng 
8 năm). Đồng thời tiểu thuyết cũng 
manh nha màu sắc trinh thám khi xuất 
hiện một vụ án không dễ đoán kết quả. 
Tuy nhiên các tổ chức nhân vật của 
Tản Đà đã dần đƣa tiểu thuyết rời xa 
khung kết cấu của chính nó và dẫn nó 
NGUYỄN HƢƠNG NGỌC – TIỂU THUYẾT GIẤC MỘNG CON CỦA 
57 
sang một tổ chức kết cấu khác đó là 
trở thành tiểu thuyết luận đề. 
Mặc dù tiểu thuyết đƣợc tổ chức nhƣ 
thể là một tác phẩm phiêu lƣu nhƣng 
sự xuất hiện, hành động của các nhân 
vật xoay quanh nhân vật trung tâm đã 
không thể hiện điều đó. Sự hình dung 
của tác giả về các nhân vật, về hành 
động, lời nói của các nhân vật đều 
phục vụ cho một quan điểm về con 
ngƣời, về tài năng, về xã hội. Việc bộc 
lộ những quan điểm, lý tƣởng thông 
qua cuộc hành trình, đối với tác giả, 
nhiều khi còn quan trọng hơn cả bản 
thân hành trình phiêu lƣu của nhân 
vật. Nhân vật trung tâm Nguyễn Khắc 
Hiếu lúc này giống nhƣ bức chân 
dung tự họa chính con ngƣời Tản Đà. 
Vậy là mặc dù cuộc chu du khắp năm 
châu của nhân vật là tƣởng tƣợng, là 
một ảo mộng nhƣng lại là ảo mộng 
dựa trên thế giới tinh thần khao khát 
tự do, khao khát đƣợc thoát ly của 
Tản Đà. Đây là một tâm lý hoàn toàn 
dễ hiểu trong hoàn cảnh thời đại và 
hoàn cảnh của bản thân Tản Đà lúc 
đó. Cuộc đời của Nguyễn Khắc Hiếu - 
Tản Đà có hai biến cố lớn làm ảnh 
hƣởng đến tinh thần của ông mà sau 
này trực tiếp ảnh hƣởng đến tƣ tƣởng 
trong thơ văn ông. Đó là việc ông yêu 
cô gái họ Đỗ ở phố Hàng Bồ, con của 
nhà tƣ sản Đỗ Thận song nhà gái đòi 
ông phải có công danh sự nghiệp thì 
mới cho cƣới. Tản Đà thi cả hai kỳ thi 
hƣơng năm 1909 và 1912 đều trƣợt. 
Hỏng thi, Tản Đà quay về Hà Nội thì 
ngƣời con gái ông yêu đã lên xe hoa 
về nhà chồng. Hai thất bại lớn này của 
cuộc đời đã đi vào trong các sáng tác 
của ông. Nó giải thích cho sự xuất 
hiện của những mối tình dang dở, việc 
trốn vào cõi tiên, cõi mộng cũng nhƣ 
thái độ ngông nghênh trong tác phẩm 
của Tản Đà. Đồng thời, lúc này đất 
nƣớc rơi vào ách đô hộ. Tản Đà là 
một trí thức yêu nƣớc đồng thời cũng 
là một nhà nho đa tài, thị tình. Ông 
khao khát đƣợc đi đến những chân 
trời mới không chỉ để khám phá mà 
còn để thi triển tài năng. Tâm lý thoát 
ly khỏi một xã hội đang bị kìm kẹp, đô 
hộ để đi tìm tự do, tìm nguồn cảm 
hứng và tìm nơi để tài năng đƣợc thể 
hiện này đã theo suốt cuộc đời và sự 
nghiệp sáng tác của ông. 
Giấc mộng con trở thành một tiểu 
thuyết luận đề cũng là minh chứng 
cho những gì còn sót lại của tƣ tƣởng 
nho gia trong thế giới quan Tản Đà. 
Văn học nho gia đề cao “chí”, “đạo” 
(thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo). Nhà 
nho sáng tác thơ văn không phải để 
sáng tạo nghệ thuật mà mục đích đầu 
tiên là để nêu lên quan điểm, để thể 
hiện ý chí, cốt cách, nhân phẩm của 
mình. Nhà nho làm thơ, làm văn 
không phải là thú chơi đơn thuần mà 
phải có chức năng cảm hóa, giáo dục 
hoặc cảnh tỉnh nhất định. Sáng tác 
của họ không phải những tiểu tự sự 
nhƣ văn học hiện đại mà thiên về 
những luận điểm mang tính đại tự sự. 
Giấc mộng con đã bị “kẹt” ở thế đứng 
giữa hai hệ tƣ duy, văn học trung đại 
và văn học hiện đại nên mới có sự 
đứng giữa ngã ba đƣờng thể loại nhƣ 
vậy. 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (248) 2019 
58 
4. THAY LỜI KẾT 
Tản Đà là ngƣời chủ trƣơng “bán văn” 
(trong Hầu trời) nghĩa là ông đã nhận 
ra sự cần thiết của việc thay đổi trong 
sáng tác văn học. Văn chƣơng cần 
phải hiện đại, cấp tiến và phù hợp hơn 
với độc giả của một xã hội đã xuất 
hiện hình thái sản xuất đô thị kiểu 
phƣơng Tây. Tuy nhiên quá trình thực 
hiện mộng ƣớc thay đổi đó lại bất 
thành. Tản Đà sáng tác văn học theo 
một “tiềm thức” sáng tạo rất nho gia 
đó là tự họa con ngƣời tinh thần, lý trí 
của chính mình. Tác phẩm của ông 
phần lớn để nói lên chí nguyện, mong 
ƣớc của chính tác giả. Trong tiểu 
thuyết này, giấc mộng lập đại nghiệp, 
sở thích đƣợc “xê dịch”, ƣớc nguyện 
về một hồng nhan tri kỷ và giấc mơ về 
một xã hội lý tƣởng đã đƣợc thể hiện 
rất rõ. Tản Đà loay hoay ở vạch ranh 
giới giữa văn học trung đại và văn học 
hiện đại để cuối cùng ông mắc vào bi 
kịch “lại giống” (Phan Cự Đệ và nhiều 
tác giả, 2013: 197). Ông “vừa bƣớc 
vào thực tế, các ảo tƣởng cứ vỡ dần” 
(Phan Cự Đệ và nhiều tác giả, 2013: 
197), các giấc mộng của ông cứ thế 
tan vỡ. Tản Đà muốn thay đổi văn 
chƣơng, muốn lập nên một sự nghiệp 
mới hiển hách nhƣng con ngƣời văn 
học gốc nhà nho đã kìm giữ ngòi bút 
của chính ông để cuối cùng tác phẩm 
của ông quay trở lại với đặc điểm của 
văn học nho gia quen thuộc. Cả cuộc 
đời cầm bút của mình “Tản đà vẫn là 
một nhà nho, một nhà nho ít thanh 
thản” (Phan Cự Đệ, 2013: 202-203). 
Giấc mộng con I chính là một trong số 
những tác phẩm nằm trong vòng tròn 
đó. 
Mặc dù sự cách tân không thành công 
song không thể phủ nhận công sức 
của Tản Đà. Những cố gắng của ông 
đƣợc thừa nhận và đã khơi mạch cảm 
hứng cho các nhà văn hậu thế. Tản 
Đà thực sự xứng đáng là ngƣời của 
hai thời đại văn học, là ngƣời mở 
cánh cửa giao thời nhƣ Hoài Thanh 
(1999: 255) trong Thi nhân Việt Nam 
đã khẳng định: “ Tiên sinh đã dạo 
những bản đàn mở đầu cho một cuộc 
hòa nhạc tân kỳ đƣơng sắp sửa”.  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hƣợu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, 
Hà Văn Đức. 2013. Văn học Việt Nam 1900 - 1945. Hà Nội: Nxb. Giáo dục Việt Nam. 
2. Hoài Thanh. 1999. Hoài Thanh toàn tập, tập 2. Hà Nội: Nxb. Văn học. 
3. Nguyễn Khắc Xƣơng (biên soạn). 2002. Tản Đà toàn tập, tập 2. Hà Nội: Nxb. Văn 
học. 

File đính kèm:

  • pdftieu_thuyet_giac_mong_con_cua_tan_da_nhin_tu_goc_do_the_loai.pdf