Sự mai một ngôn ngữ của một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam
Mai một ngôn ngữ là hiện tượng một dân tộc mất dần hoặc mất hẳn tiếng mẹ đẻ, do không sử dụng trong đời sống,
thậm chí coi ngôn ngữ khác là tiếng mẹ đẻ của mình. Trên thực
tế, không ít dân tộc thiểu số ở Việt Nam đang đứng trước nguy cơ
này, đồng thời thất lạc các hình thái văn hóa được lưu giữ. Cần
có những biện pháp cấp bách và thiết thực giúp bảo tồn và phát
triển các ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số: nghiên cứu khoa
học (cơ bản và ứng dụng); hoạch định chính sách; giáo dục ngôn
ngữ và sử dụng ngôn ngữ các dân tộc thiểu số trên các phương
tiện truyền thông đại chúng; giáo dục cho đồng bào về vai trò di
sản ngôn ngữ đối với bản sắc văn hóa truyền thống của họ và có
ý thức bảo tồn, phát triển tiếng mẹ đẻ. Nhân tố quan trọng nhất
đem lại sức sống cho các ngôn ngữ là được truyền dạy và có vai
trò (được sử dụng) trong đời sống xã hội.
g chữ viết; biên soạn các sách công cụ (sách giáo khoa, sách ngữ pháp, từ điển...); sưu tập các văn bản (vốn văn nghệ truyền thống; sáng tác mới...) và ghi bằng các ngôn ngữ DTTS. 3/ Giáo dục ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ các DTTS trên các phương tiện truyền thông đại chúng. 4/ Giúp cho người bản ngữ DTTS hiểu rõ hơn về vai trò di sản - ngôn ngữ đối với bản sắc văn hóa truyền thống của họ và có ý thức bảo tồn, phát triển tiếng mẹ đẻ; giúp các nhà quản lí hiểu sâu sắc hơn về vai trò ngôn ngữ các DTTS, có hành động thiết thực hơn đối với sự đa dạng văn hóa truyền thống trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam. Điều kiện quan trọng nhất đem lại sự bảo tồn và sức sống cho các ngôn ngữ là chúng được truyền dạy và có vai trò (được sử dụng) trong đời sống xã hội. Đây là điều kiện tồn tại, giúp ngôn ngữ các DTTS thoát ra khỏi nguy cơ mai một ngôn ngữ. Để có được những điều kiện này, ngoài ngôn ngữ học, hai ngành có vai trò đáng kể là giáo dục và truyền thông. 5. Thảo luận 5.1. Bức tranh hiện thực Nhìn chung, ở Việt Nam hiện nay, “có nguy cơ bị mai một”là trạng thái ngôn ngữ thường gặp ở các vùng DTTS Việt Nam. Trừ các ngôn ngữ đã bị “mai một”, một ngôn ngữ khi đã ở vào trạng thái “có nguy cơ mai một” thì cần đặt ra câu hỏi về nó, là: Tồn tại hay không tồn tại? (“To be or not to be?”). Nhân tố quan trọng nhất đem lại sức sống cho các ngôn ngữ là chúng được truyền dạy và có vai trò (được sử dụng) trong đời sống xã hội. Đây là điều KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 53Volume 8, Issue 2 kiện tồn tại của ngôn ngữ các DTTS, giúp chúng thoát ra khỏi tình trạng “có nguy cơ mai một”, trở thành “khó mai một” và “không mai một”. 5.2. Bảo tồn và phát triển các ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số để làm gì? Trước hết, điều đó góp phần bảo tồn và phát triển sự đa dạng văn hóa trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam. Bảo tồn và phát triển các ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số sẽ bảo tồn và phát triển những nét bản sắc văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc. Thực tế thì ngôn ngữ không chỉ là một thành tố cơ bản của văn hoá, một biểu hiện của những giá trị nhân văn, mà còn là phương tiện để hình thành, phản ánh và lưu truyền các hình thái văn hóa khác (văn nghệ truyền thống; những kinh nghiệm sống, thế giới quan và nhân sinh quan; tình cảm thái độ...), hệ thống tri thức địa phương quan trọng nhất trong đời sống văn hoá tinh thần của một dân tộc. Điều đó cũng góp phần bảo tồn và phát triển sự đa dạng trong văn hóa Việt Nam, là một biểu hiện của những giá trị nhân văn. Ở Việt Nam, ngôn ngữ còn là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, là yếu tố liên kết các thành viên của tộc người. Bảo tồn và phát triển các ngôn ngữ của các DTTS còn có ý nghĩa thực tế khác: Ở Việt Nam, vấn đề quan hệ giữa các ngôn ngữ, giáo dục ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ (trong đó có tiếng mẹ đẻ của các DTTS và cả tiếng Việt, đối với người DTTS và cả đối với cán bộ công chức người Kinh) ở các vùng các DTTS đã được đặt ra từ lâu (ít nhất từ năm 1946 với bản Hiến pháp Việt Nam đầu tiên) và hiện nay vẫn phải coi là cấp thiết, trước hết vì yêu cầu phải thống nhất ý chí và củng cố sức mạnh đoàn kết giữa các dân tộc, đồng thời cần có sự bình đẳng của các thành viên cùng chung một mái nhà. Ngày tiếng mẹ đẻ Quốc tế được các quốc gia thành viên UNESCO tổ chức hàng năm tại các trụ sở UNESCO nhằm quảng bá sự đa dạng ngôn ngữ, văn hóa và tính đa ngôn ngữ. Với ngày này, cùng cảnh báo về nguy cơ tiêu vong của các ngôn ngữ trên thế giới, là lời kêu gọi các nhà nước, tổ chức và cá nhân hãy bảo vệ sự đa dạng của các ngôn ngữ, vì điều đó gắn liền với sự đa dạng văn hóa của nhân loại đồng thời mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc, là sự tôn trọng đối với phẩm giá và quyền của con người - quyền giữ gìn và phát triển cái riêng biệt, quyền của mỗi người “muốn mình là thế”... 5.3. Về chính sách ngôn ngữ của Nhà nước Việt Nam Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Điều 5 khẳng định: Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Quyết định 53/CP ngày 22/8/1980 về chính sách đối với ngôn ngữ và chữ viết DTTS ở Việt Nam khẳng định: “Tiếng Việt và chữ phổ thông là ngôn ngữ chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam (). Vì vậy, mọi công dân Việt Nam đều có nghĩa vụ và quyền lợi học tập và sử dụng tiếng phổ thông. Tiếng nói và chữ viết của mỗi dân tộc thiểu số ở Việt Nam vừa là vốn quý của các dân tộc đó, vừa là tài sản văn hoá chung của cả nước. Ở vùng dân tộc thiểu số, tiếng nói và chữ viết dân tộc thiểu số được dùng đồng thời với tiếng và chữ phổ thông”. Một số luận điểm chính trong chính sách ngôn ngữ của Nhà nước Việt Nam: - Thừa nhận và đảm bảo về mặt pháp lí quyền có ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) riêng của tất cả các dân tộc ở Việt Nam; quyền bình đẳng giữa các ngôn ngữ, quyền bảo tồn và phát triển tiếng nói chữ viết riêng của các DTTS. - Tiếng nói và chữ viết của các DTTS được tôn trọng, được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. - Khuyến khích các DTTS học tiếng Việt, đưa tiếng Việt thực sự trở thành ngôn ngữ giao tiếp chung giữa các dân tộc, là phương tiện để đoàn kết, củng cố khối thống nhất các dân tộc trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam. Chính sách nói trên của Nhà nước Việt Nam hoàn toàn phù hợp với tinh thần và những cố gắng của cộng đồng quốc tế. Ngày tiếng mẹ đẻ Quốc tế, viết tắt là IMLD (International Mother Language Day) là ngày 21 tháng 2 hàng năm được UNESCO chọn là ngày lễ quốc tế tại hội nghị ngày 17 tháng 11 năm 1999. Ngày lễ này đã được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc chính thức công nhận. 6. Kết luận Nhiều DTTS ở Việt Nam đang đứng trước nguy cơ mai một ngôn ngữ đồng thời thất lạc các hình thái văn hóa được lưu giữ và phát triển bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Nguy cơ đó, trong hoàn cảnh thực tế hiện nay, vì nhiều lí do cả khách quan lẫn chủ quan, ngày càng lớn và đã trở thành xu thế phổ biến. Cần báo động về nguy cơ mai một ngôn ngữ này, như một tương lai ảm đạm: Các dân tộc ở Việt Nam rốt cuộc sẽ nói bằng tiếng Việt hoặc một ngoại ngữ nào đó khác; tiếng mẹ đẻ chỉ còn trong kí ức. Nghĩa là tất cả sẽ giống nhau “như những giọt nước trên một dòng sông”. Cần có những biện pháp cấp bách và thiết thực giúp các ngôn ngữ này dừng lại trước ngưỡng cửa mai một. Trước khi bàn đến chuyện phát triển các ngôn ngữ này, phải giúp chúng có cơ hội truyền bá và có vai trò, mang lại ích lợi cho cuộc sống con người. Xin chia sẻ một câu đã được Phạm Quỳnh nhắc đến từ năm 1930, của René Gillouin trong cuốn KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 54 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH sách nhan đề “Từ Alsace đến Flandre: Tính thần bí ngôn ngữ học”. Tác giả René Gillouin - khi viết về những xung đột ngôn ngữ, đã nhắc đến ngôn ngữ như cái con người dùng để suy nghĩ và nguyện cầu, và:“Đối với một dân tộc, mất tiếng mẹ đẻ ngang với mất linh hồn”1 1. Phạm Quỳnh (2007), Tiểu luận (viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 – 1932). Nxb. Tri thức, tr. 468. THE LANGUAGE LOSS OF ETHNIC MINORITIES IN VIETNAM Ta Van Thonga Ta Quang Tungb a Vietnam Institute of Lexicography and Encyclopedia Email: tavanthong1955@gmail.com b Vietnam Institute of Linguistics Email: quangtung7391@gmail.com Received: 25/5/2019 Reviewed: 30/5/2019 Revised: 5/6/2019 Accepted: 13/6/2019 Released: 21/6/2019 DOI: https://doi.org/10.25073/0866-773X/301 Abstract: Language loss is the phenomenon where an ethnic loses gradually or completely its mother tongue, because this language is not used in life, even considering another language as its mother tongue. In fact, many ethnic minorities in Vietnam are at this risk, and at the same time, lose cultural forms preserved. Urgent and practical measures are needed to preserve and develop ethnic minority languages: science research (basic and applied); making policies; language education and the use of ethnic minority languages in mass media; educating native speakers about the role as a heritage of their language for their traditional cultural identity and having a sense of preservation and development of their mother tongue...The most important factor to bring vitality to the languages is that language is taught and has a role (used) in social life. Keywords: Language; Ethnic minorities; Language loss; Language education; Language on media. Tài liệu tham khảo Nguyễn Hữu Hoành (chủ biên), Nguyễn Văn Lợi, Tạ Văn Thông (2013), Ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Nxb. Từ điển bách khoa, H. Nguyễn Văn Lợi (2012), “Công trình tra cứu về ngôn ngữ và vấn đề bảo tồn ngôn ngữ có nguy cơ tiêu vong”, Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, s. 2(16). Phạm Quỳnh (2007), Tiểu luận (viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 – 1932). Nxb. Tri thức, H. Tạ Văn Thông (1993), “Mối quan hệ giữa chữ và tiếng các dân tộc thiểu số với chữ và tiếng Việt”, Trong: Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, H. Tạ Văn Thông, Tạ Quang Tùng (2017), Ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam, Nxb. Đại học Thái Nguyên. Tạ Văn Thông, Tạ Quang Tùng (2018), “Survival of languages in Vietnam at Present”, Journal of Vietnam Academy of Social Sciences, No 1, page 76 - 84. Baker, Colin (2008), Những cơ sở của giáo dục song ngữ và vấn đề song ngữ , Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. Gregerson, Marilin (1989), “Ngôn ngữ học ứng dụng: Dạy đọc chữ (tài liệu cho các ngôn ngữ thiểu số)”; Tạp chí Ngôn ngữ, số 4. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc UNESCO Băng Cốc (2007), Tài liệu hướng dẫn Phát triển Chương trình Xóa mù chữ và Giáo dục cho người lớn tại cộng đồng ngôn ngữ thiểu số, Nxb. Giao thông Vận tải, H.
File đính kèm:
- su_mai_mot_ngon_ngu_cua_mot_so_dan_toc_thieu_so_o_viet_nam.pdf