Sự kết hợp giữa chất văn xuôi và chất thơ trên bình diện ngôn ngữ và giọng điệu trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945

TÓM TẮT

Với tư cách sáng tạo “hai trong một”, Lưu Trọng Lư đã mang theo sứ mệnh

“hòa giải” giữa thơ và văn xuôi khi đến với văn chương. Bình diện ngôn ngữ và

giọng điệu thể hiện tiêu biểu nhất cho sự kết hợp hài hòa giữa chất văn xuôi và chất

thơ trong mảng văn xuôi tự sự trước 1945 của nhà văn.

pdf6 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 366 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Sự kết hợp giữa chất văn xuôi và chất thơ trên bình diện ngôn ngữ và giọng điệu trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
áu hơn một cái đầu 
người, phải không các anh? 
Bây giờ mặt trời cũng vừa lên. 
Những ánh nắng chiếu vào cái đầu lâu, 
làm cho cái đầu lâu như vừa thếp một 
lớp vàng” [2, tr. 855-856]. 
Nhưng với vai trò của một nhân vật 
trong tác phẩm, người kể chuyện Lưu 
Phước Doãn còn bộc lộ thái độ, quan 
điểm, suy nghĩ của mình trước sự việc 
kỳ lạ vừa diễn ra: “Tôi không thể tin 
được đó là một sự tính toán, theo một 
phương pháp nào. Có lẽ là những sự 
biểu diễn kỳ lạ của một tâm hồn thác 
loạn, của một người mất trí mà thôi. 
Nhưng thật ra tôi cũng không tin ở cái 
thuyết ấy lắm. Tôi vẫn muốn, vẫn cố mà 
tin rằng sự hành động này của Minh có 
thể đưa lại cho tôi một cái gì lạ. Nếu 
không, ít ra, tôi cũng có thể biết rằng 
bạn tôi là một kẻ mắc bệnh thần kinh, 
một người điên mà tôi sẽ tìm cách cứu 
chữa hay xa lánh” [2, tr. 854]. 
Sự hòa đồng giữa cảm xúc của 
người trần thuật với cảm xúc nhân vật 
là một trong những biểu hiện của việc 
xử lý hài hòa quan hệ giữa thơ và văn 
xuôi. Ở câu chuyện trên, nhà văn vừa 
để nhân vật trần thuật lộ diện lại vừa 
để nhân vật trần thuật ẩn tàng. Trong 
tư cách là người trần thuật lộ diện, anh 
ta được coi là người tham dự vào câu 
chuyện như là một nhân vật, được gia 
nhập vào hội thoại, được nhận xét trực 
tiếp, được nói tiếng nói của mình. 
Hình thức trần thuật này có tính bộc lộ 
chủ quan và mang sắc thái cảm xúc 
cao được cụ thể hóa trong ngôn ngữ 
của nhân vật Lưu Phước Doãn. Còn 
trường hợp người trần thuật ẩn tàng là 
người trần thuật theo “ngôi thứ ba” 
dưới hình thức người kể chuyện (do 
tác giả sáng tạo ra), lời trần thuật ở 
đây mang tính khách quan hóa và 
trung tính. Lưu Phước Doãn được 
chứng kiến, trải nghiệm trong câu 
chuyện và có khả năng kể lại toàn bộ 
câu chuyện theo cách riêng của mình. 
Vì vậy, lời trần thuật ở đây còn có 
nhiệm vụ tái hiện và phân tích, lý giải 
thế giới khách quan vật chất, sự việc, 
con người; tái hiện và phân tích, lý 
giải lời nói ý thức người khác. 
Sự hòa đồng giữa cảm xúc của 
người trần thuật với cảm xúc nhân vật 
đã cho độc giả thấy các nhân vật của 
Lưu Trọng Lư có đời sống tâm hồn, 
tình cảm có nhiều nét tương đồng với 
người kể chuyện. Qua tâm hồn nhân vật 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
84 
ta thấy được hình tượng tác giả ẩn đằng 
sau đó. Nhà văn chọn nhân vật trần 
thuật lộ diện khiến cho khoảng cách 
giữa người trần thuật và nhân vật đã 
được rút ngắn lại, có khi còn trùng với 
nhân vật. Do vậy, ngôn ngữ biểu cảm, 
ước lệ chiếm vị trí quan trọng trong văn 
xuôi của ông là điều dễ hiểu. 
2.2. Sự kết hợp giữa chất văn xuôi 
và chất thơ trên bình diện giọng điệu 
Trong nhiều tác phẩm, Lưu Trọng 
Lư sử dụng sự đan cài giữa giọng điệu 
cảm thương và giọng điệu kể việc tỉnh 
táo. Giọng điệu cảm thương đã có từ 
trong mạch văn thương thân xót đời, 
đặc biệt là xót thương cho thân phận 
của người phụ nữ qua các tác phẩm văn 
học trung đại như: Chinh phụ ngâm 
khúc (Đặng Trần Côn), Cung oán ngâm 
khúc (Nguyễn Gia Thiều), Ai tư vãn (Lê 
Ngọc Hân), Tự tình khúc (Cao Bá Nhạ), 
hay ở một số truyện thơ Nôm như 
Truyện Kiều của Nguyễn Du... Tất thảy 
đều thể hiện một tinh thần cảm thương 
cho số phận con người, tiếc than cho 
những số phận bị hủy hoại một cách 
oan uổng. Tới văn học Việt Nam đầu 
thế kỷ XX, độc giả dễ dàng nhận ra 
giọng điệu cảm thương trong Nói 
chuyện với ảnh, Thư trách người tình 
nhân không quen biết (Tản Đà), Linh 
Phượng ký (Đông Hồ), Giọt lệ thu 
(Tương Phố), nhất là Tố Tâm của 
Hoàng Ngọc Phách. Đến văn học Việt 
Nam thời kỳ 1930 - 1945, dòng truyện 
ngắn trữ tình có ba cây bút tiêu biểu là 
Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh. Họ 
đã quan sát, quan tâm tới những rung 
động trong thế giới nội tâm của con 
người. Những câu chuyện họ viết thậm 
chí không có cốt truyện, nó dàn trải trên 
trang văn là thế giới nội tâm, những 
rung động trong tâm hồn của nhân vật. 
Nhiều sáng tác trong mảng văn xuôi 
tự sự của Lưu Trọng Lư trước 1945 
cũng ảnh hưởng của chủ nghĩa cảm 
thương. Điều này thể hiện rõ trong các 
tác phẩm viết về người phụ nữ, về ký ức 
người thân Khác với những nhà văn 
cùng thời nhìn hiện tượng mại dâm chủ 
yếu ở phương diện sự tha hóa xã hội thì 
Lưu Trọng Lư lại chú trọng vào hoàn 
cảnh đẩy đưa, vào phương diện cá nhân 
cụ thể của những phụ nữ sa cơ lỡ bước. 
Không ngẫu nhiên ông chọn miêu tả 
những “cô lái đò sông Hương” vốn là 
con quan gặp nạn như Lan trong Gió 
cây trút lá. Ông không chỉ nhìn thấy số 
kiếp “sống làm vợ khắp người ta” của 
họ mà còn nhận ra, đôi khi một cách 
nghịch lý, nét nghệ sĩ tài hoa cùng tâm 
hồn thanh khiết, khát vọng tự do của họ; 
đây là thứ tự do cá nhân, tự do nhân 
cách, nó tương phản với tình cảnh trụy 
lạc mà họ lâm vào, nó cho thấy Lưu 
Trọng Lư nhấn vào nét bi kịch trong tâm 
hồn họ hơn là vào trạng thái trụy lạc 
thảm hại của họ. 
Nhà văn miêu tả sự sa cơ lỡ bước 
dấn thân làm gái giang hồ trên sông 
Hương của nhân vật Lan. Là người có 
lòng tự trọng, Lan đã trốn đi để cho Hải 
làm tròn chữ hiếu với cha mẹ. Nhưng 
Hải vẫn đi tìm Lan. Qua lời kể lể lẫn oán 
trách của người bác trước cái chết tức 
tưởi của Lan, người đọc nhận thấy Lưu 
Trọng Lư đã khéo léo đan cài giữa giọng 
điệu thương xót, ai oán và kể việc tỉnh 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
85 
táo: “Ông Hải ơi, ông đã làm gì cháu tôi 
mà đến nỗi nó kinh sợ ông đến rứa! Ông 
nói đi! Sao ông đứng im thế? Ông khóc 
mà làm gì nữa. Muộn lắm rồi! Từ hôm ở 
nhà ông nó trốn về thì sáng hôm sau 
bệnh cũ trở lại ngay. Nó ho nhiều quá! 
Và ngay hôm ấy, nó khạc ra huyết. Khốn 
nỗi tôi có biết vì sao! Vì sao nó lại trốn 
đi? Hồi 3 - 4 giờ sáng nó mới về đến 
thuyền tôi. Ông Hải, có phải ông đã đuổi 
nó? Ông không nhớ nó đã có sẵn bệnh 
trong mình à? Tội nghiệp! Đêm khuya 
gió lạnh như thế, làm sao tránh khỏi 
bệnh được? Sao ông nhẫn tâm thế ông 
Hải? Ông nói đi” [1, tr. 507]. 
Trong tiểu thuyết Em là gái bên 
song cửa, giọng điệu này được nhà văn 
thể hiện dưới hình thức viết thư. Cô nữ 
sinh Cẩn trước khi chọn cái chết để tạ lỗi 
với gia đình vì đã trót yêu một thi sĩ đã 
có vợ con, Cẩn đã viết thư khuyên người 
yêu trở về sum họp với gia đình của anh: 
“Trong cõi nhân gian man mác này, 
chúng ta không thể tìm đâu được một 
mái nhà chung, để che đậy chút ái tình 
yếu ớt của đời ta Anh ơi! Không thể 
còn tìm đâu thấy cái mái nhà công cộng 
ấy nữa: Vì anh, số mệnh đã muốn rằng: 
Anh không phải là sở hữu của em. Mà 
em không muốn cướp anh trong một 
cuộc phiêu linh không nhà, không cửa. 
Em không dám, em không can đảm, vì 
như thế là em cưỡng lại ý Trời!... Mà 
người như em không thể sống một ngày 
không Thượng đế Anh hãy buông em 
ra, trả em lại cho Thượng đế. Em lạy van 
anh. Tha cho em, tha cho linh hồn em” 
[2, tr. 1054]. 
Những ký ức về gia đình, dòng tộc 
cũng là đề tài mà Lưu Trọng Lư có thể 
sử dụng nghệ thuật đan cài giọng điệu 
cảm thương và giọng điệu kể việc. 
Chẳng hạn, tiểu thuyết Dòng họ, người 
mẹ của nhân vật tôi thường hay khóc 
lóc, kể lể bằng giọng điệu sầu thương vì 
bất bình trước cách sắp con các phòng 
của chồng đối với mình và các con đẻ 
của bà: “Thân tôi như giọt nước sa vào 
đâu thì nhờ đấy. Tôi đã bỏ làng, bỏ cửa, 
bỏ nhà, bỏ cha mẹ, anh tam mà theo 
ông Con gà, con lợn cũng mang theo. 
Thế mà ruộng nương cha mẹ tôi cho, 
nay ông đòi bán, mai ông đòi bán. Đã 
vậy mà mẹ con tôi nào có được yên 
thân. Nay người ta chầu chò, mai người 
ta thì thộ” [2, tr.1109]. 
Cách sử dụng đan cài giữa giọng 
điệu cảm thương và giọng điệu kể việc 
tỉnh táo đã giúp cho những trang văn 
xuôi trước 1945 của Lưu Trọng Lư đi 
sâu vào khám phá nét bi kịch trong tâm 
hồn của những cô gái sa cơ lỡ vận đậm 
nét hơn việc xoáy vào trạng thái trụy lạc 
thảm hại của họ. Cũng nhờ cách đan cài 
giữa hai giọng điệu, nhà văn đã khơi dậy 
những ký ức về gia đình, dòng tộc gắn 
liền với tuổi thơ của bản thân tác giả. 
3. Kết luận 
Khởi đầu nghiệp bút với thơ và 
cũng nổi danh trước hết với tư cách nhà 
thơ, văn xuôi của Lưu Trọng Lư có sự 
kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa chất 
văn xuôi và chất thơ. Ông chú tâm vào 
cảm giác, cảm nhận mang tính chủ 
quan, ưa khám phá những tâm tình lãng 
mạn, thích khai thác những yếu tố bi 
trong cuộc sống. Do đó ngôn ngữ phân 
tích trong văn xuôi tự sự của Lưu Trọng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
86 
Lư không lấn át ngôn ngữ biểu cảm, 
ước lệ và giọng điệu cảm thương được 
đan cài với giọng điệu kể việc tỉnh táo. 
Như vậy, với truyền thống nghiêng 
về thơ của người Việt và bối cảnh sáng 
tạo đặc thù của bộ phận văn học công 
khai kết hợp với những trải nghiệm và 
hoạt động thực tiễn của bản thân, trong 
văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư, người 
đọc thấy được cái độc đáo của nhà văn 
qua qua ngôn ngữ, giọng điệu. Ông đã 
hướng đến sự kết hợp nhuần nhuyễn 
giữa chất văn xuôi và chất thơ trong văn 
xuôi tự sự của mình. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lưu Trọng Lư (2011), Tác phẩm - truyện ngắn, tiểu thuyết, tập 1 (Lại Nguyên 
Ân - Hoàng Minh sưu tầm, biên soạn), Nhà xuất bản Lao động - Trung tâm Văn hóa - 
Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội 
 2. Lưu Trọng Lư (2011), Tác phẩm - truyện ngắn, tiểu thuyết, tập 2 (Lại Nguyên 
Ân - Hoàng Minh sưu tầm, biên soạn), Nhà xuất bản Lao động - Trung tâm Văn hóa - 
Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội 
THE COMBINATION OF PROSAIC AND POETIC IN LANGUAGE AND 
TONE SIDE OF LUU TRONG LU’S PROSE NARRATIVES BEFORE 1945 
ABSTRACT 
As a person who created “two in one”, Luu Trong Lu carried the mission that 
reconciled the poetry and the prose in literature. Language and tone were the most 
representative expression for the perfect combination of prosaic and poetic in his 
prose narrative before 1945 period. 
Keywords: Luu Trong Lu, perfect combinati on, prosaic, poetic, language, tone 
(Received: 16/2/2019, Revised: 25/2/2019, Accepted for publication: 7/5/2019) 

File đính kèm:

  • pdfsu_ket_hop_giua_chat_van_xuoi_va_chat_tho_tren_binh_dien_ngo.pdf