Đặc trưng nghệ thuật của văn học

TÓM TẮT

Mục đích của bài viết nhằm xác định bản chất và đặc trưng nghệ thuật của văn học. Trên

cơ sở xác định khái niệm "nghệ thuật", chúng tôi phân loại và xác định văn học là một

trong tám loại hình nghệ thuật, song song cùng tồn tại với hội họa, kiến trúc, điêu khắc,

sân khấu, âm nhạc, điện ảnh, nhiếp ảnh. Đồng thời, phân tích đặc trưng nghệ thuật của

từng loại hình, để xác định nhưng ưu và nhược điểm nổi bật của văn học - với tư cách là

một loại hình nghệ thuật.

pdf6 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 317 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Đặc trưng nghệ thuật của văn học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
ng khi đó, các loại hình nghệ thuật khác, tuy có loại hình có thể ra đời trước khi có 
văn học (hội họa, điêu khắc, chẳng hạn), nhưng càng phát triển hiện đại bao nhiêu, càng có sự 
tham gia biểu hiện của ngôn từ bấy nhiêu. Những bức tranh, bức ảnh cần ngôn từ để chú thích, 
ghi chú, âm nhạc cũng cần đến ca từ cho ca khúc, sân khấu không chỉ cần đến hành động, điện 
ảnh không chỉ cần đến hình ảnh, mà còn cần đến lời thoại, tiếng nói... cao hơn, nghệ thuật nào 
cũng cần đến, nhất thiết phải có, cái nhìn văn học. Đó không phải là cái nhìn có thể thấy được 
thông qua chất liệu vật chất, mà nhìn vào bên trong, bên dưới các lớp vỏ chất liệu vật chất, để 
thấy được đời sống bên trong cõi tâm hồn con người. Và, hẳn là, mỗi người mỗi khác, mỗi 
người một thế giới, không ai giống ai, mà chỉ có sức mạnh ngôn từ mới có thể lộn trái nó ra, 
phơi ra dưới nắng ấm những khoảng tối tăm ảm đạm tận đáy tâm hồn. 
3. Hình tượng văn học đến được với người đọc là hình tượng gián tiếp. Vật liệu chữ 
cũng chỉ là hình thức vật chất, nhưng lại là loại vật chất đặc biệt, có chất keo dính, nhằm tạo nên 
những ký hiệu. Dựa vào luận điểm của Bielinski cho rằng “ Thơ văn là loại hình nghệ thuật cao 
cấp nhất”, giáo sư Phương Lựu nhìn mệnh đề mà Đỗ Lai Thúy vừa nêu, ở một góc độ ngang 
bằng sổ thẳng hơn, khi nhận ra vai trò đồng cân đồng lạng giữa văn học và các loại hình nghệ 
thuật khác, khi cho rằng: “Không phải ngẫu nhiên mà trong kho từ vựng của những ngôn ngữ 
lớn trên thế giới (Pháp, Anh, Nga, Hán) khi nào cũng diễn đạt “văn học nghệ thuật”, trên một ý 
nghĩa nào đó, đã nêu rõ tính chất và vai trò của văn học sánh ngang với tất cả bộ môn còn lại” 
(4, tr.37). 
Các loại hình nghệ thuật khác, chất liệu đều là vật chất, cho dù với những hình thái khác 
nhau (màu sắc, đường nét, âm thanh, tiết tấu, hình thể, động tác) thì chất liệu của văn học lại là 
chữ viết, là ngôn từ. Ngôn từ là cái biểu hiện sinh động của ngôn ngữ, như đã nói, ngôn ngữ lại 
là hệ thống tiếng nói của một quốc gia, một dân tộc. Nhưng ngôn ngữ, đồng thời còn là hệ thống 
tín hiệu, ký được mã hóa nhằm thông tin, biểu hiện cho một hình thái tư tưởng. Nếu nói ngôn 
ngữ chính văn của hội họa là màu sắc, ngôn ngữ chính văn của văn học là ngôn từ, thì nó không 
giản đơn là hệ thống lời nói, không phải là bản thân vật chất mà là hệ thống ký hiệu được mã 
hóa nhằm thông tin, biểu hiện. Khách quan mà thừa nhận, chính đặc điểm này vừa là nhược 
điểm lại vừa là ưu điểm (mà ưu điểm nhiều hơn) của văn học so với các loại hình nghệ thuật 
Đặc trưng nghệ thuật của văn học 
40 
khác. Đó là tính gián tiếp của hình tượng. Không thể nhìn thấy hoặc nghe được một cách trực 
tiếp như các loại hình khác, mà phải hình dung bằng tư duy trừu tượng, bằng trí tưởng tượng. 
Nhưng cũng chính vì thế, văn học có thể biến nhược điểm thành ưu điểm, phát huy được những 
khả năng mà các loại hình nghệ thuật khác không thể có được. “Ngôn ngữ là cái vỏ vật chất từ 
trực tiếp của tư duy”(Marx), là tín hiệu thứ nhất, là công cụ của tư duy, do đó hình tượng văn 
học là sản phẩm trực tiếp của tư duy trừu tượng. Ngôn ngữ có độ dính, có thể xâu chuỗi tất cả, 
thể hiện được cả thế giới vô hình lẫn hữu hình, từ những khoảng diện lớn lao ngoài cuộc sống 
đến những khoảnh khắc tế vi trong cõi tâm hồn, từ những câu chuyện lịch sử dài hàng mấy 
nghìn năm đến những thoáng chốc bất chợt như những tia chớp của cơn mưa đầu mùa... Nghĩa 
là, ngôn từ có thể đan cài, đính kết những hạt sáng lấp lánh vô tận của không gian và thời gian, 
vừa vi mô vừa vĩ mô, từ cụ thể sinh động đến khái quát trừu tượng trước một thế giới có ý nghĩa 
vô cực. 
Trên bình diện xã hội, ngôn từ là tài sản chung của mọi người, và mọi người đều có thể 
sở hữu một cách trọn vẹn, không hạn chế, san chia cho từng người, nên nó mang tính phổ biến 
đối với sáng tạo và hưởng thụ văn học. Nhờ thế, nó có nhiều ưu thế hơn trong việc thể hiện 
những đặc tính về tư tưởng đối với đại chúng, hơn hẳn so với các loại hình nghệ thuật khác. Do 
hình thức vật chất của mình, các loại hình nghệ thuật khác hạn chế trong việc chuyển dịch hình 
tượng văn học sang hình tượng nghệ thuật của loại hình mình có, trong khi văn học có thể 
chuyển dịch bất kỳ hình tượng nghệ thuật nào (miêu tả bằng ngôn từ) hình tượng văn học. Vì 
vậy, nếu hình tượng là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” (Lénine), là sản phẩm bao 
giờ cũng được hình dung ra một cách gián tiếp, thông qua sự cảm nhận trực tiếp từ các giác 
quan, thì hình tượng văn học là sản phẩm gián tiếp của gián tiếp, do đó nó có sức tác động mạnh 
mẽ, lớn lao, có ý nghĩa vô hạn theo cấp số nhân, chứ không hữu hạn như hình tượng của các 
loại hình nghệ thuật khác. 
4. Mọi loại hình nghệ thuật đều có mục đích tự thân của nó, có vị trí, vai trò và giá trị 
riêng không thể thay thế, và chính vì thế mà nó có ý nghĩa bình đẳng và lý do để tồn tại trong 
đời sống tinh thần của con người. Nhưng nhìn lại tiến trình nghệ thuật, dễ dàng nhận ra rằng, 
các loại hình nghệ thuật ngày càng có xu hướng xuyên thấm lẫn nhau, có sự kế thừa và vận 
dụng một cách đan xen thủ pháp nghệ thuật, những thế mạnh của nhau, nhằm thỏa mãn nhu cầu 
thưởng thức thẩm mỹ của con người hiện đại. 
Từ khi có lý thuyết văn chương, có thể nhận ra văn học đã trải qua những thời kỳ lớn 
với những mô thức khác nhau. Ơ thời kỳ tiền hiện đại, các trào lưu lớn như chủ nghĩa hiện thực, 
chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên tuy có cơ sở tư tưởng khác nhau nhưng đều có điểm 
chung trong quan niệm về cuộc sống, ẩn chứa, ràng buộc những điều cốt tử, có ý nghĩa sâu xa, 
chi phối sự hình thành và tồn vong của sự sống (đó là tình cảm, lý tưởng của chủ nghĩa lãng 
mạn, là quan hệ kinh tế - xã hội của chủ nghĩa hiện thực, là vấn đề bản năng sinh vật của chủ 
nghĩa tự nhiên). Chỗ gặp nhau của họ chính là có chung một mô thức về chiều sâu bản chất, vừa 
ngẫu nhiên vừa tất yếu, vừa hình thức vừa nội dung, xoay quanh những vấn đề và nhân vật 
trung tâm. Chủ nghĩa hiện đại lại phá bỏ toàn bộ mô thức đó để xây dựng một mô thức khác, tự 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học Huế Tập 2, Số 2 (2014) 
41 
đập vỡ mình ra để làm lại chính mình, tuy không rõ ràng, xác định, nhưng cũng có trung tâm, có 
chiều sâu, có chỉnh thể nhưng khó nắm bắt, mơ hồ không xác định (vô thức, hiện sinh, cấu 
trúc...). Đến chủ nghĩa hậu hiện đại là sự phá bỏ triệt để các mô thức, đập vỡ tất cả các thành trì, 
dỡ bỏ các giềng mối, rào cản, các chỉnh thể, các trung tâm, để... không tái lập bất kỳ một mô 
thức nào, không tuân thủ một qui luật nào, một chỉnh thể chuẩn mực nào có giá trị. Người được 
coi là thủy tổ của chủ nghĩa hậu hiện đại là Jean Francois Lyotard, cho rằng, thế giới đang trên 
bươc đường toàn cầu hóa, thì văn học đã chuyển từ “đại tự sự” sang “tiểu tự sự”. Nghĩa là, từ 
những gì đã đặc định hóa, đã định hình, đã đúc kết thành nguyên lý, có giá trị vạch đường chỉ 
hướng cho hành động con người, chuyển sang trạng thái chưa đặc định hóa, đang trên đường 
hình thành nhưng chưa xác định, chỉ đề xuất hoặc gợi mở một khả năng, một nguyên tắc hành 
động có tính vô nguyên tắc. “Với chủ nghĩa hậu hiện đại, thì phía sau hiện tượng không hề có 
bản chất, bên trong ngẫu nhiên không hề có tất yếu, bên dưới vô thức không hề có ý thức, bên 
trên ngôn từ không thể có ngôn ngữ. Bản chất của hiện tượng nếu có, thì không xác định dứt 
khoát, mà luôn luôn được khai mở bởi những quan hệ không ngừng thay đổi” (4, tr.63). 
Với con đường đang mở ra trước mắt vừa rối rắm, mơ hồ, chưa định hướng như vậy, tất 
nhiên văn học cũng cứ vẫn phải tồn tại và phát triển. Và, với hiện trạng như hiện nay, văn học 
tất yếu phải vận dụng nhiều đến ngôn ngữ các loại hình nghệ thuật khác, tạo nên sự đan xen để 
lấp đầy những khoảng trống do những phá vỡ quy luật bày ra, ít ra cũng về phương diện hình 
thức nghệ thuật. Lập chưa đầy, mà có người đã khẳng định đã hết thời thống trị của chủ nghĩa 
hậu hiện đại, từ năm 1990 đến nay đã bước sang thời kỳ hậu hậu hiện đại như Barry Lewis, đã 
nói (2, tr.58)... Cố nhiên, như đã nói, không có hình thức nào tách rời, độc lập so với nội dung, 
bởi vì khát vọng sáng tạo của con người luôn thể hiện một mục tiêu có tính chất nguyên lý như 
Léonov đã từng chỉ ra: “Mỗi tác phẩm nghệ thuật- nhất là nghệ thuật ngôn từ- đều là một khám 
phá về nội dung và một phát minh về hình thức” (3, tr.42). Con đường kiếm tìm không mấy dễ 
dàng đang chờ đợi chúng ta ở phía trước. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Lại Nguyên Ân (1999). 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 
[2]. Lê Huy Bắc (2011). Khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại, in trong kỷ yếu hội thảo Văn học hậu hiện 
đại - Lý luận và tiếp nhận, Khoa Ngữ văn, Đại học Khoa học Huế. 
[3]. Dẫn theo Lê Tiến Dũng (1998). Lý luận văn học, TTĐTTX, Đại học Huế. 
[4]. Phương Lựu (2010). Tiếp nhận văn học, Nxb Đại học Huế. 
[5]. Phương Lựu (2011). Lý thuyết văn học hậu hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
[6]. Huỳnh Như Phương (2010). Lý luận văn học (nhập môn), Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí 
Minh. 
[7]. Đỗ Lai Thúy (2011). Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
Đặc trưng nghệ thuật của văn học 
42 
[8]. R.Wellek và A.Warren (2009). Lý luận văn học, (Nguyễn Mạnh Cường dịch), Nxb Văn học, Trung 
tâm Quốc học, TP. Hồ Chí Minh. 
THE ARTISTIC FEATURE OF LITERATURE 
Pham Phu Phong 
Department of Literature and Linguistics, Hue University of Sciences 
Email: phphphong@gmail.com 
ABSTRACT 
The purpose of the article aims to determine the nature and artistic feature of literature. On 
the basis of artistic concepts identified, we classify and define literature as one of eight art 
forms, which coexist with painting, architecture, sculpture, theater, sound light, electricity 
photos, photography. At the same time, we analyze characteristics of each forms of art, but 
to determine the strengths and weaknesses of the literature highlights - as a kind of art. 
Keywords: artistic feature, literature. 

File đính kèm:

  • pdfdac_trung_nghe_thuat_cua_van_hoc.pdf