Quan niệm về chữ “trung” trong văn học nhà Nho Nam Bộ giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX
Tóm tắt
Văn học nhà nho Nam Bộ phát triển tron bối cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc nửa sau thế kỷ XIX -
một iai đo n có sự chuyển biến lớn tron quan niệm về chữ “trung” ể hiểu hơn về quan niệm này,
bài viết luận iải quan niệm về chữ “trung” tron quan hệ với lý t ởn trun quân, lý t ởn ái quốc và
chữ “trung” - nhìn từ óc độ nhận thức, vận dụn nhữn iá trị tích cực đối với thực ti n
tron điều lệ nên th n dân phải thề: “Làm tôi hết trung, làm quan trong sạch, ai trái thề này, thần minh giết chết” [3, tr.439]. “Điều đó cho thấy triều đình phong kiến đã đẩy ý nghĩa trung quân từ một cách hành xử trong hành đạo của người quân tử lên thành luật vua, phép nước, lấy hình phạt cao nhất để răn đe. Nó vừa làm tăng sự uy nghi của vua vừa làm cho đạo lý trung quân mang màu sắc thiêng liêng. Trung quân không còn đơn giản chỉ là một hành vi ứng xử với người trên mà còn là bổn phận cao nhất của một kẻ bề tôi với vị vua - Trung quân” [8, tr 43] Ở N uy n ình Chiểu cũn thể hiện rõ quan điểm: “Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh là câu trau mình” [9, tr 93] ừ triết lý đó, vua chúa phon kiến cổ vũ cho chữ hiếu cũn nhằm để cổ vũ cho chữ trun , hiếu với cha mẹ để trun với vua ron đ o làm tôi, Khổn ử đề cao 122 chữ trun , nhấn m nh đến l n biết ơn, sự phục tùn , tinh th n phục vụ của bề tôi đối với vua và quốc ia heo ôn , n i làm quan tr ớc hết phải là n i có đức, có thái độ ứn xử đún ở mọi lúc, mọi nơi M nh ử cũn đã phê phán nhữn kẻ làm quan mà khôn đún danh phận của mình: “Khi ra làm quan rồi, thì phải trung với vua, hết lòng hết sức thờ vua, nhưng cũng không vì vậy mà biến mình thành kẻ “ngu trung”. Người làm tôi trung còn là người biết can gián vua, khi vua làm điều trái đạo, không những thế, còn có thể phế truất ngôi vua, khi thấy vua là kẻ vô đạo” ừ đó, khái niệm “trung quân” xuất hiện Khi quyền lợi của vua thốn nhất với quyền lợi dân tộc thì quan niệm về trun đồn th i là trun với n ớc, mỗi bên đều phải có trách nhiệm với nhau: “Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung” (Nhà vua sai khiến bề tôi thì dùn l , bề tôi phụn sự nhà vua thì iữ đ o trun ) Khổn ử khôn chủ tr ơn “ngu trung”, khôn bắt buộc bề tôi phải phục tùn bề trên một cách vô điều kiện nh quan niệm về chữ trun của các nhà nho sau này Quan niệm về chữ trun khôn phải là trun một cách tuyệt đối, khi vua khôn ra vua thì th n dân khôn nhất thiết phải trun Khi đ i sốn nhân dân yên bình, ấm no thì bề tôi tuyệt đối phục tùn vua, trun thành với vua vô điều kiện Khi mà đ i sốn xã hội có nhiều biến đổi thì quan niệm về chữ trun ắn liền với l n yêu n ớc, ắn với lợi ích của dân tộc nên tron từn iai đo n lịch sử thì quan niệm này cũn có nhữn biến đổi phù hợp với l n yêu n ớc của nhân dân ta ron th i kỳ dựn n ớc, quan hệ vua tôi là quan hệ quân th n cùn chun lý t ởn yêu n ớc, chốn n o i xâm để bảo vệ nền độc lập cho dân tộc Cho nên đã có nhiều tấm ơn tiêu biểu thể hiện l n trun thành đối với vua nh : Dã ợn , Yết Kiêu đã lều chết để bảo vệ r n H n o, Lê Lai đã chết thay cho Lê Lợi Và sau này là nhữn anh hùn luôn trun với n ớc đ ợc hiện diện tron nhữn sán tác của các nhà nho, đặc biệt là iai đo n nửa cuối thế kỷ XIX Khi triều đ i phon kiến khôn c n đảm đ ơn đ ợc sứ mệnh iải phón dân tộc, tron nội bộ triều đình có nhữn kẻ n u trun , phản độn , bán n ớc (Lê Chiêu hốn c u cứu nhà hanh, N uy n Ánh c u cứu thực dân Pháp) thì nhân dân ta l i càn quyết tâm vùn dậy chốn l i chế độ phon kiến Bởi vì, tron t t ởn chủ đ o của các nhà nho là yêu n ớc, họ quan niệm vua đến rồi l i đi, triều đ i dựn lên rồi l i đổ, chỉ đất n ớc của nhân dân là c n mãi Do vậy, chữ “trung” đã đi vào nhận thức của con n i một cách tự nhiên và đã trở thành chuẩn iá trị của chế độ phon kiến Nhân dân ta đã tiếp nhận chữ trun ở một nhận thức mới, t bỏ đi nội dun cũ của Nho iáo là trun với vua và đ a vào đó nội dun mới là trun với n ớc Khi xác định nội dun chữ trun , nhân dân ta đã đặt nội dun ấy tron sự phù hợp với yêu c u, n uyện vọn của nhân dân, phù hợp với nhiệm vụ đấu tranh iải phón đất n ớc Lấy chữ “trung” làm nền tản để t o nên sức m nh iúp nhân dân ta v ợt qua mọi khó khăn, đánh thắn mọi kẻ thù xâm l ợc và xây dựn xã hội n ày càn tốt đẹp Giá trị cốt lõi của đ o đức truyền thốn dân tộc là l n trun thành đối với ổ Quốc, bởi tron th i phon kiến, việc trun với n ớc cũn là trun với vua, tuy nhiên trun với vua phải có điều kiện và điều kiện ấy phải là trun với đất n ớc t ởn đ o đức truyền thốn của dân tộc ta đặt n ớc cao hơn vua, vì ph m trù trun đ ợc xác lập trên cơ sở chủ n hĩa yêu n ớc 123 ắn bó chặt chẽ với l n th ơn dân, l n nhân ái của dân tộc N ày nay chún ta c n phải kế thừa nhữn tinh hoa t t ởn đ o đức truyền thốn của dân tộc, t o nên sức m nh tinh th n vĩ đ i cho nhân dân ta làm nên cuộc cách m n thán ám thành côn , đánh đuổi thực dân Pháp và Mỹ xâm l ợc để iành độc lập và thốn nhất đất n ớc Chún ta phải thực hiện đ o đức Cách m n trun với n ớc, hiếu với dân, xây dựn một xã hội n ày càn iàu đẹp Hiện nay, trun với n ớc là trung thành với lợi ích của quốc ia, với sự n hiệp xây dựn và bảo vệ ổ Quốc Quan niệm về chữ trun yêu c u phải có l n yêu n ớc th ơn n i, tự hào về truyền thốn vẻ van của dân tộc, đó là bổn phận, trách nhiệm đối với ổ Quốc Vì thế, con n i phải có ý thức n hị lực v ơn lên để v ợt qua mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàn hy sinh vì ổ Quốc và đặc biệt tron quá trình xây dựn đất n ớc phải th n xuyên nân cao tinh th n của chữ trun ể hi nhớ côn lao chiến đấu chốn iặc iữ n ớc của các anh hùng, nhân dân đã xây dựn đền th t ởn niệm các nhân vật vì trun vì n hĩa Hiện nay tron dân ian c n l u truyền bài thơ ca n ợi nhữn con n i trun n hĩa: “Vì nước quên mình bởi chữ trung/ Thương dân chi sá chốn sình bùn/ Mấy năm Đồng Tháp danh vang dội/ Cọp rống ngoài truông, cáo hãi hùng/ Hai thước im lìm nơi thạch động/ Đồng bào tưởng nhớ đứng thờ chung/ Nỗi lòng nghĩ đến nhiều năm trước/ Hương lửa đều không cảnh lạnh lùng” (Khuyết danh). Với Nho iáo, chữ trun đ ợc đặt ra tron quan hệ với lý t ởn trun quân, lý t ởn ái quốc, chữ trun cũn đ ợc đặt ra với chính bản thân mình để tu thân và trở thành n i quân tử N oài ra, c n đặt ra tron quan hệ với n i khác, mỗi n i thực hiện đún việc, đún phận sự của mình làm cho xã hội ổn định và phát triển Nhữn quan niệm này của Nho iáo cho đến nay vẫn c n n uyên iá trị và có ý n hĩa xã hội thực sự của nó ron điều kiện hiện nay, khi mối quan hệ của con n i với con n i càn đ ợc mở rộn , khi xã hội đan có một số biểu hiện xuốn cấp về mặt lý t ởn , đ o đức thì t t ởn về trun , về n hĩa tron các mối quan hệ của Nho iáo l i càn có ý n hĩa quan trọn , óp ph n điều chỉnh hành vi của mỗi con n i để xây dựn xã hội n ày càn tốt đẹp hơn Dân tộc ta có một l n yêu n ớc nồn nàn, đó là một truyền thốn quý báu nên tron tình hình mới d ới sự ảnh h ởn của nhiều t t ởn nên việc iáo dục l n yêu n ớc tron điều kiện hội nhập là rất c n thiết ron bối cảnh đó, côn tác iáo dục thế hệ trẻ nhất là iáo dục l n yêu n ớc, l n tự hào dân tộc là vấn đề có ý n hĩa đặc biệt quan trọn đối với sự phát triển của đất n ớc Văn học nhà nho yêu n ớc Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX là một bộ phận quan trọn của văn học dân tộc, chiếm vị trí quan trọn tron ch ơn trình iáo dục phổ thôn , đặc biệt với nhữn tác phẩm văn học thể hiện l n yêu n ớc, chốn n o i xâm và thể hiện tính dân tộc sâu sắc 5 Kết uậ Khi thực dân Pháp tiến hành xâm l ợc thì nhữn t t ởn , quan niệm trun với dân, với n ớc ở các sĩ phu yêu n ớc đã từn b ớc đ ợc thể hiện, cho thấy nhữn biến chuyển lớn tron quan niệm trun của các nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX Quan niệm trun đ ợc đặt ra và quan niệm này có sự chuyển biến, thay đổi khi lợi ích của qu n chún nhân dân khôn đ ợc đảm bảo trọn vẹn run với vua thì l i mâu 124 thuẫn với tình yêu đối với đất n ớc, quân đã khôn minh thì th n khó mà có thể iữ l n trun Nhữn nỗi niềm này đ ợc thể hiện qua nhữn sán tác thơ văn của các nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX Bên c nh đó cũn có nhiều nhà nho n hiên về t t ởn yêu n ớc nh n họ cũn ch a thể quên hẳn chữ trun quân N oài một số n i chấp nhận hợp tác với chính quyền thực dân, có nhữn nhà nho khôn iúp đ ợc vua thì tìm cách lui về ở ẩn, chứ khôn chịu làm tai sai cho iặc Bên c nh đó, ta thấy một số nhà nho phó mặc cho th i thế, một số tìm đ n tránh né để iữ khí tiết và một số thua keo n y y keo khác để cố chí phục thù Dù yêu n ớc th ơn dân nh n đứn tr ớc th i cuộc các nhà nho khôn sao làm trái đ ợc với t t ởn trun quân của đ o nho Nỗi l n day dứt của họ đã đ ợc phản chiếu tron các án thơ văn, đến bây i vẫn c n làm lay độn tâm hồn n i đọc TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bảo ịnh Gian (1995), Những ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, iểu luận - In l n thứ 2 có bổ sun , Nxb Văn học 2. Bảo ịnh Gian , Ca Văn hỉnh (1977), Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, Nxb Văn học, Hà Nội 3. Cau Huy Giu dịch (1971), Đại Việt sử ký toàn thư, ập 2, Nxb Văn hóa hôn tin, Hà Nội 4. N uy n Văn H u (2012), Văn học miền Nam lục tỉnh - Văn học Hán Nôm thời kháng Pháp và thuộc Pháp, ập 3, NXB rẻ, P Hồ Chí Minh. 5. Phan hị Minh L , Ch ơn hâu (2005), Thơ văn Phan Thanh Giản, Nxb Hội Nhà văn 6. N uy n Lộc (1976), Lịch sử văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX ( ái bản có bổ sun và sửa chữa), Nxb i học và run học chuyên n hiệp, Hà Nội 7. N uy n Duy Oanh (1974), Chân dung Phan Thanh Giản, ủ sách Sử học, Nxb Bộ Văn hóa - Giáo dục và hanh niên (miền Nam) 8. N uy n hị Kim Ph ợn (2013), “Chữ run tron ca dao dân ca n i Việt”, p chí Khoa học Xã hội hành phố Hồ Chí Minh, (7), tr.43. 9. Ca Văn hỉnh, N uy n Sĩ Lâm, N uy n h ch Gian (1982), Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, ập 1, Nxb i học và run học chuyên n hiệp, Hà Nội 10. Ca Văn hỉnh, N uy n Sĩ Lâm, N uy n h ch Gian (1982), Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, ập 2, Nxb i học và run học chuyên n hiệp, Hà Nội 11. Pham hiều (chủ biên), Cao ự hanh, Lê Minh ức (1986), Nguyễn Hữu Huân nhà yêu nước kiên cường, nhà thơ bất khuất, Nxb hành phố Hồ Chí Minh Ngày nhận bài: 04/10/2016 Biên tập xong: 15/11/2016 Duyệt đăn : 20/11/2016
File đính kèm:
- quan_niem_ve_chu_trung_trong_van_hoc_nha_nho_nam_bo_giai_doa.pdf