Quan niệm nghệ thuật về con người của Rabindranath Tagore trong thơ trữ tình - tình yêu (Khảo sát qua tập "Tâm tình hiến dâng")
TÓM TẮT
Rabindranath Tagore (1861 - 1941) là hiện tượng kiệt xuất của văn học Ấn Độ thế kỉ XX. Thơ trữ
tình - tình yêu là phần tiêu biểu nhất trong sự nghiệp thơ ca của ông. Tập Tâm tình hiến dâng được
chính Tagore dịch từ tiếng Bengal sang tiếng Anh là tập thơ mà nhà thơ đã dồn hết sinh lực và tình
cảm của cả đời mình để cất lên thành những lời ca. Hình tượng con người hoà hợp, con người tự
do, con người vị tha trong mỗi bài thơ chính là sự hoá thân của người tình Tagore muốn gửi đến
độc giả những triết lý nhân sinh sâu sắc về cuộc đời và con người
ới chỉ dừng lại ở việc giải phóng bản chất tự nhiên là tình yêu và ý thiện và mới chỉ là tự do trong tinh thần, trong tư tưởng, gắn liền với việc mở mang trí tuệ, tu luyện tinh thần chứ chưa mang ý nghĩa đấu tranh thực tiễn. Phải đến năm 1930, sau chuyến thăm Liên bang Xô Viết, Tagore mới có sự thay đổi trong nhận thức về con người với tư cách là “một tổng hoà các quan hệ xã hội” (C.Mác), có khả năng hành động cải tạo xã hội. Vấn đề giải phóng con người khỏi sự áp bức xã hội bắt đầu thu hút được sự chú ý của ông. Nó đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong nhận thức của Tagore mà vào thời điểm Tâm tình hiến dâng ra đời chưa có được. CON NGƯỜI VỊ THA Tagore cho rằng: mỗi con người có thể trở nên tốt đẹp hơn tình trạng hiện tại của mình. Muốn vậy, con người phải biết kiềm chế những khao khát và thèm muốn, biết giữ danh dự trong mọi ngả đường của cuộc sống và biết chia sẻ lòng cảm thông với tất cả mọi người. Xuất phát từ quan niệm ấy, Tagore đã thực sự trở thành người nghệ sĩ ca hát về vẻ đẹp vô cùng, vô tận của thế giới, về hạnh phúc của cuộc đời, về tình yêu, về niềm vui và nỗi khổ đau nhân thế. Chính trong thơ mình Tagore từng phát biểu: “Thơ tôi làm với tình yêu của mình là một” (Bài số 4 - Tặng vật). Bài thơ mở đầu tập Tâm tình hiến dâng có thể xem như tuyên ngôn nghệ thuật của Tagore. Nhà thơ không muốn là một triết gia mà nguyện làm một người chăm sóc cho khu vườn tình yêu Ấn Độ tràn đầy hương sắc: “Tôi sẽ từ bỏ việc đang làm, đem giáo gươm đã dùng vứt vào cát bụi. Xin người đừng gửi tôi tới những Hoàng cung xa xôi, và cũng xin đừng bắt tôi dấn thân vào cuộc chiến chinh nào khác nữa. Chỉ xin cho tôi làm kẻ chăm sóc vườn hoa” (Bài số 1). Cuộc đối thoại giữa Hoàng hậu và Tôi bộc diễn ra khi đêm đã “quá khuya” và Tôi bộc chủ động tiếp kiến Hoàng hậu chỉ để xin một ân sủng: được “làm kẻ chăm sóc vườn hoa” bởi là kẻ chăm sóc vườn hoa đồng nghĩa với việc anh có thể chăm sóc, vun trồng cho mầm tình yêu nảy nở, đó cũng là hành động bộc lộ tình yêu của anh đối với cuộc đời. Cái tôi tâm linh của Tagore nhập thân vào lời của Tôi bộc trong những khát khao mãnh liệt được cống hiến, được dâng tặng cho đời những hương hoa mình thâu nhận được từ cuộc đời cực nhọc với tất cả tình yêu và niềm ngưỡng mộ. Những bài thơ trong tập Tâm tình hiến dâng thực sự là những lời tâm sự chân thành của người cầm bút đầy ý thức trách nhiệm với nghề: “Tôi để mắt nhìn liệu những trái tim trẻ dại lạc loài có gặp nhau chăng, liệu những đôi mắt hăm hở đang mong cầu giai điệu, giai điệu có đến đánh tan màn im lặng, rồi thay họ mà nói lên lời. Ai sẽ ở đó dệt những bài ca đắm đuối, nếu tôi cứ ngồi trên bờ cuộc đời trầm ngâm nghĩ đến sống chết ở thế giới bên kia?” (Bài số 2). Cùng với tâm niệm: “Vương quốc của Thiên đường ở trên mặt đất này đây. Nơi nào mà ta thực tại hoá những tương quan thân ái với đồng loại, nơi không còn nghi kị và ngộ nhận ”[8,303], Tagore thực hiện một nỗ lực kéo con người từ hư vô trở về với thực tại: “Không các bạn ơi, tôi sẽ chẳng bao giờ là Phạm Thị Vân Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 169 - 174 173 một người ẩn sĩ dù các bạn có nói gì đi nữa. Tôi sẽ chẳng bao giờ là người ẩn sĩ nếu nàng không ước thề cùng tôi”. /Không các bạn ơi, tôi sẽ chẳng bao giờ rời bỏ bếp lửa, mái nhà ấm êm để ẩn mình trong tịch mịch rừng xanh, nếu không có tiếng hớn hở vui cười vang ầm trong bóng mát, nếu không có tà áo vàng nghệ phất phơ trong gió và nếu không có những tiếng thì thầm nhè nhẹ làm cho tịch mịch rừng xanh sâu thẳm thêm hơn” (Bài số 43). Tagore hoá thân vào nhân vật người ẩn sĩ. Nhà thơ hai lần sử dụng phủ định: “không đâu” và “chẳng bao giờ” nhưng là để khẳng định chắc chắn về quá trình tu luyện để đắc đạo đời. Ý tưởng mà Tagore thể hiện trong bài thơ chính là trạng thái bừng tỉnh, đốn ngộ từ cõi thẳm sâu trong tâm linh của mỗi người trong cuộc hành trình kiếm tìm vị “Chúa đời của mình”. Không muốn là một triết nhân, cũng không muốn là ẩn sĩ, Tagore muốn được là người của cuộc đời này, được sống giữa cuộc đời và sống giữa mọi người. Cái tôi tác giả đã hoá thân thành nhiều dạng thức khác nhau trong tập thơ Tâm tình hiến dâng để thể hiện khát khao được cống hiến, khát khao hoà hợp với muôn triệu trái tim. Bởi vậy, trong bài thơ số 37, Tagore khẳng định: “Tim tôi là của mọi người; tim tôi không phải của tôi dành riêng cho một ai”. Bằng sự chiêm nghiệm của chính bản thân cùng tấm lòng đồng cảm chân thành, nhà thơ đã nói hộ nỗi lòng của biết bao đôi lứa yêu nhau: “Người em yêu của lòng tôi hãy bình tâm và giữ cho giây phút chia tay được êm đẹp mãi. /Đừng để giây phút ấy biến thành chết chóc mà thành hoàn hảo trọn vẹn./ Hãy để tình yêu tan vào kí ức và đau đớn chìm trong lời ca” (Bài số 61). Đoạn thơ với nhịp thơ chậm rãi, phù hợp với tâm trạng của nhân vật trữ tình. Mặc dù rất đau đớn nhưng nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn cố nén nỗi đau lại để nói với người mình yêu bằng những lời nhẹ nhàng, tha thiết nhất. Chàng trai hiểu được rằng tình yêu có hợp có tan, có lúc được sống hạnh phúc bên nhau nhưng cũng có lúc sẽ phải chia xa mãi mãi. Vì vậy, hãy để cho cuộc chia tay này diễn ra như là điểm kết thúc “trọn vẹn” của một tình yêu, để rồi tình yêu trở thành những kỉ niệm “êm đẹp” nhất trong tâm hồn của mỗi người mỗi khi nhớ về nó. Dường như trái tim nhân hậu, đa sầu, đa cảm của Tagore đã hoà vào từng dòng thơ để ca ngợi về một tình yêu cao đẹp trong khung cảnh chia tay thật nhẹ nhàng, xúc động: “Tôi cúi đầu, tay giơ cao đèn soi sáng bước em đi” (Bài số 61). Câu thơ vận động theo dòng cảm xúc. Những động từ đi liền nhau: “cúi đầu”, “tay giơ cao đền”, “soi sáng bước em đi”, biểu thị sự khiêm nhường, lịch thiệp của nhân vật trữ tình, đồng thời thể hiện tấm lòng nâng niu, trân trọng tình yêu của chính nhà thơ. Đúng là khi yêu, người ta luôn mong muốn làm cho người yêu mình được hạnh phúc dù mình không phải là người mang đến niềm hạnh phúc ấy. Và dù trái tim này có đau đớn, vô vọng đến đâu thì cũng không bao giờ là người cản trở niềm vui, niềm hạnh phúc của người tình: “Nếu em muốn, tôi sẽ ngừng tiếng hát./ Nếu lời tôi ca làm tim em rung động, tôi sẽ không nhìn em nữa./ Nếu lời tôi ca bỗng dưng làm em sửng sốt trong lúc đang đi, tôi sẽ rẽ sang một bên và bước theo ngả khác./ Nếu lời tôi ca làm em bối rối trong lúc kết hoa, tôi sẽ tránh không vào vườn em vắng lặng../ Nếu lời tôi ca làm nước sông gợn sóng, dại ngây, tôi sẽ thôi không chèo thuyền lại gần bờ phía bên em” (Bài số 47). Từ “nếu” đứng đầu mỗi câu thơ biến cả đoạn thơ thành hàng loạt những câu điều kiện với những hình ảnh có tính chất tượng trưng cao, thể hiện sự cao thượng của một tấm lòng biết cho và biết nhận. Hành động ấy là ánh sáng dẫn lối, chỉ đường cho con người sống đẹp hơn, ý nghĩa hơn trong cuộc đời này. Vậy nên, Tagore đã khuyên tình nhân: “Hãy đặt lòng tin vào tình yêu dẫu tình yêu mang lại khổ đau. Chẳng nên khép lòng mình như thế” (Bài số 27). Bởi hơn ai hết, nhà thơ hiểu được rằng chính niềm lạc quan, tin tưởng sẽ giúp con người vượt lên phía trước để kiếm tìm hạnh phúc mới: “Tôi biết rằng cuộc đời này nếu không chín rộ trong tình yêu, cũng chưa phải mất đi tất cả” (Bài số 48 -Vượt đại dương). Phạm Thị Vân Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 169 - 174 174 Có thể nói, những quan niệm của Tagore về cuộc sống, con người, về các vấn đề nhân sinh đã được nảy nở một cách tự nhiên qua dòng cảm xúc suy tưởng miên man, bất tận của nhà thơ với niềm khao khát được góp phần “nuôi dưỡng lòng tin sâu sắc của con người vào sự hoà hợp giữa bản thể của mình với tất cả những gì tồn tại” [1,45]. Chính điều đó làm cho những bài thơ trong Tâm tình hiến dâng dù viết về hạnh phúc hay về những khổ đau, bất hạnh trong tình yêu, về giờ phút chia tay khi tình yêu tan vỡ vẫn không hề có giọng điệu than thở, buồn chán, tuyệt vọng mà trái lại luôn ánh lên ánh sáng của niềm lạc quan, hi vọng, đầy tin tưởng. Hình tượng con người hoà hợp, con người tự do, con người vị tha trong mỗi bài thơ chính là sự hoá thân của một người tình Tagore với trái tim và thiên tài kì diệu chỉ người tình mới có. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Phan Nhật Chiêu, Hoàng Hữu Đản (1991), Tagore - Người tình cuộc đời, Nxb Hội nhà văn, Tp HCM, tr.45. [2]. Xuân Diệu (1981), "Trong khi đọc người làm vườn tình ái", Báo Văn nghệ, số 2, tr.122. [3]. Cao Huy Đỉnh (1961), Ra-vin-đơ-ra-nat Ta- go-re, Nxb Văn Hóa, H, tr.25. [4]. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQGHN, H, tr.273. [5]. Trần Đình Sử (1991), "Khái niệm quan niệm nghệ thuật trong nghiên cứu Văn học Xô Viết", Tạp chí Văn Học, số 4, tr.130. [6]. Trần Đình Sử (2000), Lí luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, H, tr.119. [7]. R.Tagore, Thực nghiệm tâm linh, Như Hạnh dịch, Nxb Kinh Thi, Sài Gòn, 1969, tr.49, 37, 201, 13. [8]. Nhiều tác giả (1982), Mười nhà thơ lớn thế kỉ (phần R.Tagore), Nxb Tác phẩm mới, tr.303. SUMMARY THE ART CONCEPTION ABOUT PEOPLE OF RABINDRANATH TAGORE IN HIS LYRICAL LOVE POEMS (Researched from Tam tinh hien dang) Pham Thi Van Huyen* College of Sciences - TNU Rabindranath Tagore (1861 - 1941) was a pre-eminent poet of Indian literature in the 20th century. Lyrical love poem were the best in his works. Tam tinh hien dang translated from Bengal into English by himself was the collection of poems was devoted by his all ability and love. The image of people in agrement, people in freedom and people with unselfishness in each of the poems was the turning of the lover Tagore who wanted to send the readers some profound phylosophies about life and people. Key words: Lyrical love poem, art conception, people, life, love * Tel: 0977 791986, Email:van_huyen_86@yahoo.com
File đính kèm:
- quan_niem_nghe_thuat_ve_con_nguoi_cua_rabindranath_tagore_tr.pdf