Ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình – Nét đặc sắc trong sáng tác của Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn
TÓM TẮT
Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn là hai gương mặt thơ miền núi phía Bắc khá tiêu biểu bởi sự sáng tạo
đặc sắc, mới lạ trong các tác phẩm thơ của họ. Họ là niềm tự hào của dân tộc Dáy, dân tộc Pa Dí
nói riêng, của các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung. Một trong những yếu tố quan trọng làm
nên vẻ đẹp, sức hấp dẫn và góp phần tạo nên một phong cách riêng độc đáo ấy ở họ - chính là việc
họ đã sử dụng một cách sáng tạo thứ ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình trong các tác phẩm đậm bản
sắc văn hóa dân tộc.
g và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 54 - 60 58 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Cách nói, cách so sánh ví von trên đã thể hiện những quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ dân tộc của các nhà thơ này. Trước hết, đó phải là người khỏe mạnh, đầy sức sống, đầy khả năng làm mẹ, làm vợ. Một vẻ đẹp tự nhiên, hồn nhiên - như thiên nhiên; một vẻ đẹp nồng nàn, dữ dội, mãnh liệt đầy tính phồn thực và sức cuốn hút đối với người khác giới. Với cách dùng hàng loạt các từ ngữ mang tính tạo hình cao như: tròn mập, thắt đáy lưng ong, ngực căng tròn..., cùng cách dùng hàng loạt các từ so sánh ví von: như bắp chuối, như dòng suối, như hai quả đào chín, như hai miếng thịt nướng, như một bó củi chắc nịch, như lửa... hình ảnh người phụ nữ miền núi hiện lên thật xinh đẹp, khỏe mạnh và đáng yêu biết bao: Đôi tay em như hai tấm cơm lam/Đôi chân em như hai cái bắp chuối [12, tr75]; Da thịt em mịn màng làn mây trắng/Mái đầu em mượt mà bông tóc/Khuôn ngực em căng phồng hai trái núi mùa xuân [12, tr5] Còn đối với người trai miền núi - các nhà thơ này cũng có một cách diễn tả, thể hiện rất lạ, mang dấu ấn của "riêng mình". Với Con trai người Pá Dí - Pờ Sảo Mìn đã đem đến cho người đọc một hình ảnh chàng trai dân tộc Pá Dí với những nét phác họa hết sức chân thực nhưng cũng rất hình ảnh và mang tính khái quát - qua những ngôn từ mang tính tạo hình và tính biểu cảm cao: Con trai người Pá Dí/Mắt một mí, tóc đen, mũi tẹt, da vàng/Dáng ngang tàng vẻ quẫy đạp trần gian [2, tr5]; Những chàng trai/Chân đất/Mặc khố/Đi như gió thổi qua rừng [12, tr8]. Viết về những con người miền núi - những con người không chỉ đẹp ở vẻ bên ngoài mà còn đẹp ở đời sống nội tâm. Miêu tả thế giới nội tâm với các cung bậc tình cảm khác nhau trong họ là một thành công đáng ghi nhận của cả hai nhà thơ trên. Để hiểu họ từ trong chiều sâu tâm hồn cũng như những tính cách của con người miền núi, các nhà thơ phải có sự hiểu biết thật sâu sắc, có một trái tim nhạy cảm và phải có khả năng sử dụng một cách tài tình ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình để miêu tả một cách chính xác, sinh động những sắc thái muôn màu của thế giới nội tâm con người miền núi. Là những người "trai của núi" - Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn viết về tình yêu lứa đôi với một cách cảm nhận rất riêng, một cách diễn đạt rất riêng của một người nghệ sĩ dân tộc thiểu số. Với Lò Ngân Sủn thì tình yêu luôn là nỗi nhớ da diết, nỗi nhớ được hiện lên cụ thể như nhìn thấy được, như nắm được bởi nó được hình dung như là "quả nhớ" vậy! "Quả nhớ" ấy nằm mọi nơi, mọi chốn trên tất cả cơ thể rực cháy của người trai miền núi: Quả nhớ ở trong ngực/Quả mong ở trong tim/Quả nhớ bằng trái núi/Quả mong bằng quả trời/Nhớ nhiều mây tím bầm/Mong nhiều nổi giông bão/Nhắc đến em động trời [7, tr91]. Tình yêu luôn được thể hiện ở nhiều cung bậc tình cảm khác nhau như: nỗi nhớ, niềm mong, nỗi da diết khôn nguôi, sự đợi chờ đau đáu và có một cái gì đó rất bản năng, rất mãnh liệt luôn cháy bỏng trong lòng: Anh yêu em/Như con sói đói mồi/Như con trâu đói cỏ/Như con hổ đói ăn/Như con gấu đói mật [6, tr54]. Cách so sánh, cách diễn đạt và hình ảnh thơ mà tác giả đã sử dụng rất đặc biệt (so sánh với những con vật khỏe mạnh, dữ dội như: sói, hổ, gấu... ở trong rừng) - là một người con của núi rừng nên tác giả mới có cách so sánh như vậy! Vì thế mà những sắc thái của tình yêu ở đây cũng mang đậm sắc màu miền núi. Nhưng có khi tình yêu lại được so sánh với những vật, những thứ hoa, quả... rất ngọt ngào, đầy vẻ lãng mạn và thật cháy bỏng, bạo liệt: Em như khe suối bên rừng/Anh vừa trông thấy muốn dừng uống ngay/Em như đào mận trên cây/Anh vừa trông thấy muốn tay vịn cành/Em như hoa nở mùa xuân/Anh vừa trông thấy âm thầm bén duyên/Em như câu hát tháng giêng/Anh vừa trông thấy ngả nghiêng đất trời [12, tr124]; Em như là ngày tết/Đẹp như cái bánh chưng/Em như con đường dốc/Làm lòng anh rối bời (Em như là ngày tết - Lò Ngân Sủn). Viết về tình yêu, về nỗi nhớ, tác giả luôn tìm tòi và sáng tạo ra những hình ảnh độc đáo như: Lăn lóc trong trăn trở/Quay cuồng trong nỗi nhớ [7, tr120]; Em như chum rượu ắp đầy/Để cho anh uống anh say suốt đời [5, tr58] Trần Thị Việt Trung và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 54 - 60 59 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Hoặc có khi tình yêu được ví như miếng cao lương, như rượu nồng... Pờ Sảo Mìn cũng đã viết về người yêu của mình như thế: Em là cao lương/Anh ăn đỡ đói; Em là rượu nồng/Để anh uống say; Em là bài ca/Để cho anh hát [1, tr18]Tình yêu của người miền núi thật là cuồng nhiệt, thật là đắm đuối, nhưng cũng có khi thật là kín đáo, ý nhị: Mối tình đầu của tôi/Như bông hoa chớm nở/Như ngọn lửa mới nhen/Bén như cây xấu hổ [7, tr93]. Cái sắc thái khác nhau trong tình yêu ấy đã được Lò Ngân Sủn miêu tả một cách rất cụ thể mà cũng rất khái quát bằng những ngôn từ mang đầy hình ảnh như: Mối tình đầu/Lửa bốc trước gió/Mối tình giữa/Vừa ăn vừa thổi/Mối tính cuối/Ngồi đợi trăng lên" [9, tr23]. Vâng - tình yêu quả có muôn vàn sự lạ, và đã có rất nhiều cách để diễn tả tình yêu. Với người miền núi - họ có cách cảm, cách nghĩ, cách nói rất khác với người miền xuôi, họ không khéo léo, không tế nhị quá nhưng lại biết diễn đạt một cách rất hình ảnh, rất tinh tế và rất độc đáo nữa! Bên cạnh đó, khi viết về hình ảnh những con người miền núi trong xã hội cũ, với một cuộc sống đầy lam lũ, cơ cực, nghèo khổ - Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn đã sử dụng rất nhiều hình tượng thơ giàu tính biểu cảm như những câu thơ: Rét nhiều lòng mẹ tái tê/Trên gương mặt mẹ bốn bề nếp nhăn/Lưng còng uốn tựa vành trăng/Mắt mờ mẹ lẫn giữa đêm với ngày/Mẹ đi run rẩy chân tay/Mẹ đi cái dáng hao gầy mẹ đi [8, tr35]. Tác giả đã mô tả một cách chi tiết những đường nét, những trạng thái tình cảm, tinh thần... của bà mẹ với một loạt ngôn từ giàu tính tạo hình. Sử dụng từ láy, từ so sánh có tính gợi cảm như: tái tê, bốn bề, run rẩy, làm nổi bật dáng hình và nỗi khổ, sự vất vả đè nặng lên cuộc đời của người mẹ nghèo miền núi. Hình ảnh những người vợ miền núi lam lũ, chịu thương, chịu khó cũng được nhà thơ Pờ Sảo Mìn miêu tả bằng các hình ảnh, sinh động cụ thể như: Nỗi lo toan in trên vầng trán/Nếp nhăn nheo chéo ngang chéo dọc/Cái nhọc nhằn in ở bàn chân [1, tr33]...Những từ láy nhăn nheo, nhọc nhằn đã thể hiện rõ sự vất vả, nỗi khó nhọc của những người vợ miền núi; những từ có tính tạo hình như: chéo ngang chéo dọc, nhọc nhằn in ở bàn chân cũng đã góp phần khắc họa rõ hơn thân phận của những người phụ nữ trong chế độ xưa Nói tóm lại, trong các tác phẩm thơ của mình - hai nhà thơ dân tộc thiểu số tiêu biểu - Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn đã thể hiện rất rõ khả năng sáng tạo và khả năng sử dụng một cách hiệu quả ngôn từ nghệ thuật giàu chất tạo hình của mình. Với tình cảm yêu quê hương tha thiết, hai "nghệ sĩ ngôn từ" này đã thổi hồn vào bức tranh thiên nhiên miền núi, khiến cho chúng vừa rực rỡ sắc màu, vừa sinh động và đầy ý nghĩa nhân văn. Chính vì thế, bức tranh bằng thơ mà các ông đã phác họa ra ấy - ngoài vẻ đẹp của sắc màu nó còn thấm đẫm tinh thần dân tộc trong từng chi tiết. Họ cũng đã phác họa nên những bức chân dung về con người miền núi một cách cụ thể, hết sức sinh động. Đó là những chàng trai, những cô gái miền núi khỏe mạnh, cường tráng, đầy sức sống, rất lãng mạn, đa tình - những bông hoa của núi rừng, những chủ nhân của vùng cao núi non hùng vĩ. Đó là những bà mẹ, những người vợ suốt đời gánh bao vất vả, lo toan vì chồng, vì con; những người dân miền núi chân thực, cả tin nhưng luôn sống hết mình, hi sinh hết mình vì người khác. Những hình ảnh đẹp đẽ đó đã được hiện lên bởi những ngôn từ nghệ thuật giàu chất tạo hình, giàu tính biểu cảm, với cách diễn đạt mang đậm phong cách miền núi của hai nhà thơ trên. Đây chính là một nét đặc sắc trong nghệ thuật thơ của Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn. Và đây cũng chính là một đóng góp đáng ghi nhận của hai nhà thơ miền núi đầy bản sắc dân tộc này. Trần Thị Việt Trung và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 54 - 60 60 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Pờ Sảo Mìn (1992), Cây hai ngàn lá, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H. [2]. Pờ Sảo Mìn (2001), Con trai người Pa Dí, tập thơ, Nxb Văn hóa, H. [3]. Pờ Sảo Mìn (2002), Cung đàn biên giới, tập thơ, Hội Nhà văn & Hội Văn nghệ Lào Cai [4]. Pờ Sảo Mìn (2005), Mắt rừng xanh, Nxb Văn hóa dân tộc, H. [5]. Lò Ngân Sủn (1992), Đám cưới, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H. [6]. Lò Ngân Sủn (1993), Đường dốc, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H. [7]. Lò Ngân Sủn (1996), Con của núi, Thơ chọn tập I, Nxb Hội Nhà văn, H. [8]. Lò Ngân Sủn (1996), Lều nương, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H. [9]. Lò Ngân Sủn (1995), Dòng sông mây, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H. [10]. Lò Ngân Sủn (1999), Người đẹp, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H. [11]. Lò Ngân Sủn (2000), Người trên đá, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H. [12]. Lò Ngân Sủn (2005), Bữa tình yêu, tập thơ, Nxb Hội Nhà văn, H. SHAPING POETICAL LANGUAGE - SPECIAL FEATURE IN WORKS OF LO NGAN SUN AND PO SAO MIN Tran Thi Viet Trung 2 , Nguyen Phương Ly Thai Nguyen University Publising house SUMMARY Lo Ngan Sun and Po Sao Min are 2 quite typical poets of the mountainous area in the North by own special, new and strange creation in their poems. They are the pride of Day nation, Pa Di in particular, Vietnamese minorities in conmon. One of the important factors that makes the beauty, attraction and contribute to creating their special and uniquely style is they creatively used the rich in shaping poetical language in the nationally cultural pieces. Key words: Language, shaping language, Lo Ngan Sun, Po Sao Min 2 Tel: 0912454575; Email:
File đính kèm:
- ngon_ngu_tho_giau_chat_tao_hinh_net_dac_sac_trong_sang_tac_c.pdf