Nghi thức tu trước lửa trong tang lễ của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long
Tóm Tắt
Tu trước lửa ( ) là một nghi thức quan trọng trong tang lễ của người
Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long. Nghi thức này không chỉ mang ý nghĩa người sống
báo hiếu với người chết mà còn tạo động lực cho người sống tạo quả phước cho người
quá cố khi về cõi vô minh được tái sinh vào thế giới tốt đẹp. Nguồn tư liệu của bài viết
được thu thập từ các cuộc điền dã dân tộc học tại Kiên Giang, Trà Vinh vào các năm
2017, 2018 và đầu năm 2019 bao gồm quan sát tham dự các đám tang, phỏng vấn sâu
những chức sắc tôn giáo trực tiếp thực hiện nghi thức, những người từng thực hiện nghi
thức này, người thụ lễ. Bài viết trình bày diễn trình và ý nghĩa của nghi thức tu trước
lửa qua đó khái quát thế giới quan và nhân sinh quan của người Khmer ở đồng bằng
sông Cửu Long.
n và đó cũng chính là chánh nghiệp: thân chánh nghiệp, khẩu chánh nghiệp và ý chánh nghiệp. Hình tượng này nhắc con người đang sống phải chánh nghiệp. Hành vi vị Acha Do ki gọi hồn (Lớk Chay Suốs) và cột chỉ trắng (Pi Thi Choong Đai Neak) vào tay người thụ lễ trước bàn thờ Phật mang ý nghĩa trấn an người tu và nhắc nhở người tu và những người tham dự nghi lễ cố gắng rèn luyện bản thân để trở thành người tốt trong xã hội. Sợi chỉ trắng (người Khmer gọi là Om Bós Phlúc) ám chỉ sự tinh khiết; muốn nhắc mọi người phải luôn giữ sự thanh bạch, ngay thẳng trong cuộc sống. Sợi chỉ được nhúng qua dầu thơm mang chuyển tải ngụ ý con người phải có quá trình rèn luyện, như dầu phải qua quá trình sàn lọc, đun nóng để loại bỏ tạp chất, cho ra hương thơm tinh khiết. Con người cũng vậy, cần có sự nỗ lực rèn luyện mới trở thành người tốt trong xã hội. Ngoài ra, khi mọi người buộc chỉ vào tay cho người tu đều luôn tỏ lời cầu mong người xuất gia được an lành, phấn đấu được tốt đẹp và cầu cho linh hồn người quá cố nhờ phước đó mà được an vui; cũng nhờ phước đó, mọi người dự lễ được an lạc hơn trong cuộc sống. Hình ảnh người con trai xuống tóc, đắp y trắng trên thân và được buộc chỉ trắng vào tay cùng với lời phát nguyện đi tu trong phần thứ nhất của nghi thức tu trước lửa tại https://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2020.03.031 30 bàn thờ Phật ngay tại gia đình của người quá cố được xem là bước chuyển tiếp quan trọng về nhận thức trong cuộc đời của người tu. Hình ảnh này không chỉ tạo động lực cho người tu cố gắng thay đổi về nhận thức để sống tốt hơn theo quan niệm của giáo lý Phật giáo Nam tông Khmer mà còn đánh động đến sự chuyển tiếp nhận thức của cộng đồng, những người tham dự nghi lễ. Họ nhìn vào hình ảnh của người tu để tự sửa lấy bản thân mình, tự răn đe và điều chỉnh bản thân để sống tốt hơn khi nhìn thấy trước mặt của họ là hai hình ảnh đối lập: một người tu được tôn kính và một thể xác bất động của người quá cố. Người tu dù tuổi nhỏ, nhưng có thể tạo được quả báu, cứu vớt được tội lỗi của cha mẹ khi còn tại thế; còn người quá cố trước đây có thể rất giàu sang, quyền lực, nhưng đến khi chết trở thành thể xác bất động, không mang theo được gì và cũng không có ích gì. Đó chính là sự cảnh tỉnh quan trọng đối với người sống khi nhìn vào hai hình ảnh đối lập này ngay tại tang lễ. Đến khi linh cửu được vào đài hỏa táng và ngọn lửu thiêu được khởi lên, việc đắp y cà sa và thọ tam qui, truyền giới dành cho người tu bắt đầu diễn ra. Theo quan niệm của các vị chức sắc trực tiếp thực hiện nghi thức, thì đắp y cà sa cho người tu là biểu tượng của sự trong sáng, sự chân chính trong hành vi của người tu. Đây được xem là biểu tượng cho chân, thiện, mỹ, cho phước điền. Người được đắp y cà sa cần nổ lực rèn luyện tu tập thân, khẩu, ý cho trong sáng, không để ô uế, vi phạm vào các tội lỗi, làm mất đi sự thanh bạch của y cà sa. Màu vàng của y cà sa còn mang ý nghĩa là phước điền của chúng sanh, vì được đức Phật cho Đại đức Ananda (đại đệ tử của Đức Phật) lấy ý tưởng từ ruộng dân Ma Kiệt Đà (Maggadha) mà thiết kế nên. Ngoài ra, màu vàng của y cà sa còn biểu thị cho sư hoan hỷ, giúp cho người mặc và người ngắm thấy lòng được hoan hỷ như được hưởng sắc vàng buổi ban mai. Do đó, người được đắp y cà sa vàng phải luôn phấn đấu để hoàn thiện mình, để luôn được xứng đáng là phước điền, là niềm hỷ lạc của mỗi người (Tư liệu điền dã, năm 2017). Muốn được như vậy, người tu phải thọ tam qui, được truyền thập giới; phải luôn tâm niệm “cầu xin được xá các tội lỗi”, “xin được được dứt các sự thống khổ và đến Niết Bàn” phải luôn nghĩ đến “thân này là ô trược, ghê tởm và sẽ bị thiêu rụi trong ngọn lửa; chỉ có phẩm hạnh tốt mới tồn tại vượt thời gian để tái sinh nơi an lạc”, do đó cần phải giữ 10 giới cấm đầu tiên dành cho bậc sadi(1) (Tư liệu phỏng vấn, năm 2019). Tóm lại, hình ảnh người tu trước lửa biểu thị thông điệp về phước điền, về sự an lạc để người sống có cái nhìn so sánh rõ hơn giữa phần tục với phần thiêng, giữa an lạc với đau khổ, giữa sự cao quí của người tu với sự vô giá trị của xác người chết nhằm cảm hóa người sống buông lỏng tư tưởng tha hóa để quay về chánh nghiệp và tạo động lực cho họ sống tốt hơn theo quan điểm chân, thiện, mỹ trong giáo lý Phật giáo Nam tông Khmer. Tu trước lửa và tăng quả phước cho người mất Theo lời Đức Phật dạy, có 10 cách để tạo được quả phước, công đức hay thiện nghiệp. Đó là: 1) Dana (bố thí, cúng dường), 2) Sīla (trì giới, không đi ra ngoài con Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 3(46)-2020 31 đường Bát Chánh Đạo), 3) Bhavana (phát triển tâm linh, thiền tập), 4) Hồi hướng phước báu cho người thân đã qua đời, 5) Tùy hỷ phước báu (hoan hỷ với công đức hay thiện nghiệp do người khác làm), 6) Phục vụ người khác, 7) Khiêm tốn, 8) Chánh kiến, 9) Nghe pháp, 10) Giảng dạy giáo pháp (Tuệ Đăng, 2018). Trong nghi thức tu trước lửa, nhằm tăng quả phước cho người mất, người tu chú trọng đến hai hình thức là thiền tập và hồi hướng phước báu. Do bởi, thiền tập giúp thanh lọc các phiền não hay loại bỏ các ham muốn, tham ái, sân hận, si mê, giúp người tu noi gương Đức Phật đạt được tâm định và trí tuệ. Còn hồi hướng phước báu nhằm chia sẻ sự hoan hỷ phát sinh từ việc làm tốt, đúng đắn của người tu đến người thân đã qua đời, giúp người quá cố nhận được sự hồi hướng để hưởng phước tái sanh vào cõi tốt đẹp mà tránh bị vào giới ngạ quỷ (Tuệ Đăng, 2018). Do đó, sau khi thọ tam qui, được truyền thập giới và học phép tham thiền trong phần hai của nghi thức tu trước lửa, người tu trở lại hành thiền tứ niệm xứ quán tưởng tại đài hỏa thiêu trong suốt thời gian thiêu cốt. Trong thời gian này, người tu thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ: thiền tập và hồi hướng phước báu cho người thân đã qua đời. Với thiền tập, người tu niệm về sinh, lão, bệnh, tử, quán tưởng về vô thường, khổ não, vô ngã để loại bỏ tham, sân, si, nhằm cho tâm đạt được thanh tịnh và trí tuệ thông suốt giúp hồi hướng đến người đã mất được thông suốt khi về cõi vô minh. Với hồi hướng phước báu cho người qua đời, người tu quán tưởng đến những việc thiện, những việc tốt lành, việc đúng của người tu, của người thân trong gia đình, dòng họ và kể cả của người quá cố như việc bố thí, cúng dường, trì giới, hoan hỷ thiện nghiệp, nghe pháp, dưỡng dục nhằm tăng quả báu tránh bị đọa vào giới ngạ quỷ. Ngoài ra, khi linh cửu còn đặt tại gia đình, người tu sau khi đã thực hiện xong phần thứ nhất của nghi thức tu trước lửa luôn túc trực bên linh cửu để nhận lời chia sẻ của những người thân, xóm giềng trong cộng đồng đến chia buồn và thay mặt người quá cố chia sẻ lại phước báu của người tu đến với cộng đồng. Đó cũng là hình thức giúp tăng quả phước cho người quá cố của người tu trước lửa. Chính vì thế, bên cạnh ý nghĩa báo hiếu, tạo động lực cho người sống, nghi thức tu trước lửa trong tang lễ của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long còn mang ý nghĩa tạo quả phước không chỉ cho người tu mà còn cho người quá cố, giúp người quá cố tăng quả phước, nhận thêm nhiều phước báu để khi về với cõi vô minh được sanh vào cõi tốt đẹp, tránh bị đọa vào giới ngạ quỷ. Đó cũng là ý nghĩa nhân văn và triết lý tôn giáo về nghi thức tu trước lửa trong tang lễ của người Khmer theo Phật giáo Nam tông Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. 4. Kết luận Nghi thức tu trước lửa trong tang lễ của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ là nghi thức vi tôn giáo mang ý nghĩa báo hiếu như lập luận của các nghiên cứu trước đây mà còn có ý nghĩa tạo động lực cho người sống và làm tăng quả https://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2020.03.031 32 phước cho người quá cố. Những ý nghĩa này mang giá trị nhân văn sâu sắc, giúp con người nuôi dưỡng niềm hy vọng vươn lên trong cuộc sống. Có thể nói, nghi thức tu trước lửa trong tang lễ của người Khmer có sự tác động thiết thực trong cuộc sống, không chỉ làm thay đổi nhận thức, hành vi đối với người xuất gia, mà còn tác động đến cả những người có mặt trong tang lễ và nhất là đối với thân nhân của người đã mất. Cái chết của người thân làm người sống đau buồn, thương tiếc, đôi khi là sự tuyệt dẫn đến sự quẫn trí, nên việc tu trước lửa của một cá nhân trong tang lễ là phương thức “cứu cánh”, tạo động lực, giúp người sống bớt đau buồn, vững tinh thần để tiếp tục cuộc mưu sinh tốt đẹp nơi trần thế. Vì vậy, nghi thức tu trước lửa trong tang lễ góp phần tạo nên giá trị văn hóa tộc người đặc sắc của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đặng Vũ Thị Thảo (1993). Lễ hội của người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long (về Văn hóa của Đồng bào Khmer ở Đồng Bằng Sông Cửu Long). NXB Văn hóa Dân tộc. [2] Huỳnh Ngọc Thu (2013). Báo hiếu trong hành vi tôn giáo của cộng đồng Khmer Nam Bộ. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ. Tập 16, số X3. [3] Mai Thị Ngọc Diệp (2008). Tang ma của người Khmer An Giang. Luận văn thạc sĩ. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU-HCM). [4] Nguyễn Mạnh Cường (2008). Phật giáo Khmer Nam bộ. NXB Tôn giáo. [5] Phan An (2009). Dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Chính trị Quốc gia. [6] Sơn Phước Quang (Chủ biên, 1998). Lễ hội truyền thống của Đồng Bào Khmer Nam Bộ. Nxb Giáo dục. [7] Trần Thanh Pôn (2006). Ngôi chùa Khmer và sự hình thành bản sắc văn hóa dân tộc. NXB Khoa học Xã hội. [8] Trần Văn Bổn (2002). Phong tục và nghi lễ vòng đời người Khmer Nam Bộ. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. [9] Trần Văn Bổn (1999). Một số lễ tục dân gian người Khmer đồng bằng sông Cửu Long. NXB Văn hóa Dân tộc. [10] Trường Lưu (Chủ biên, 1993). Văn hóa người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu long. NXB Văn hóa Dân tộc. [11] Tuệ Đăng (2018). Mười cách tạo phước báu, nguồn: https://chua.phohien.fr/phat- phap/muoi-cach-tao-phuoc-bau/ (truy cập ngày 20/12/2019) [12] Võ Văn Thắng và Đinh Văn To (2019). Triết lý nhân sinh trong lễ hội Sen Đôn-Ta của người Khmer Nam Bộ. AGU International Journal of Sciences, Vol. 23 (2).
File đính kèm:
- nghi_thuc_tu_truoc_lua_trong_tang_le_cua_nguoi_khmer_o_dong.pdf