Một số đặc điểm của mạch lạc trong quan hệ lập luận ở văn bản nghị luận tiếng Việt
TÓM TẮT: Mạch lạc là yếu tố quan trọng quyết định chất văn bản của một văn bản. Bài viết này làm rõ
biểu hiện mang tính đặc trưng của mạch lạc trong văn bản nghị luận là mạch lạc qua quan hệ lập luận ở
một số phương diện là kiểu lập luận, đặc điểm của các thành phần lập luận và hiện tượng đa thanh.
ao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước; Kính Đức, một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung,....[6, SGK Ngữ văn 8, tập 2, tr.55] 74 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG Các đoạn trích về lập luận ở các ví dụ trên đều dẫn lời của chủ ngôn. Lời của chủ ngôn trở thành những luận cứ đáng tin cậy, là cơ sở vững chắc cho kết luận bởi đó là những điều đã được thừa nhận là đúng và được ghi lại, được lưu truyền trong sử sách, trong dân gian. Và vì thế, kết luận rút ra dựa trên những luận cứ kiểu này sẽ giàu sức thuyết phục vì hợp với lẽ thường. Trong các văn bản nghị luận văn học, chủ ngôn có thể là một nhà nghiên cứu, phê bình, một nhân vật nổi tiếng, hoặc một người nào đó mà không cần chỉ đích danh, và nhiều khi đó chính là lời của đối tượng được đề cập tới. Lập luận đa thanh được nhận biết qua sự xuất hiện của danh từ riêng hoặc các từ/ tổ hợp từ đứng đầu như: có người/ người ta/ nhiều người/có bạn/ nhiều bạn đọc và phê bình,... cho rằng/ nhận xét/ nói,... hoặc dưới con mắt/ dưới cái nhìn của... Ví dụ 12: Go-rơ-ki nói: “Khi đọc Tôn-xtôi ta có cảm giác là các nhân vật có thật, có xương, có thịt... ta tưởng như nhìn thấy họ trước mắt ta, ta lấy tay sờ họ được”. Chúng ta đọc “Truyện Kiều” đều có chung một cảm giác ấy. Một bà cụ nông dân một hôm nói với tôi: “Nước Nam mình đẹp nhất có con Kiều. Mà khổ nhất cũng con Kiều. Thương nó quá”. Những nhà nho hoặc khinh ghét Kiều như Nguyễn Công Trứ, Huỳnh Thúc Kháng, hoặc yêu mến Kiều như Mộng Liên Đường, Chu Mạnh Trinh cũng đều xem Kiều là người có thật. Mộng Liên Đường viết: “Dẫu đời xa, người khuất không được mục kích tận nơi, nhưng lời văn tả ra hình như máu chảy đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột”. Còn Chu Mạnh Trinh thì có thể nói là không những say “Truyện Kiều”, say văn chương “Truyện Kiều” mà chính là say nàng Kiều y như say một giai nhân có thật. Con người ấy từ lâu đã sống trong lòng hàng triệu người và được quý trọng, được âu yếm, được yêu mến đến say mê. Kiều đã từ tiểu thuyết đi vào cuộc đời và nhiều khi người ta đã quên không còn nhớ Kiều là người trong tiểu thuyết.[7, tập I, tr.320] Đây là một lập luận có tính đa thanh rất rõ. Lời của các chủ ngôn được thuyết ngôn (Hoài Thanh) dẫn hết sức phong phú: có lời của chủ ngôn trong nước (bà cụ nông dân, Mộng Liên Đường, Chu Mạnh Trinh), có lời của chủ ngôn ngoài nước (Go-rơ-ki); có chủ ngôn là người bình dân (bà cụ nông dân), có chủ ngôn là người nổi tiếng (Go- rơ-ki, Mộng Liên Đường và Chu Mạnh Trinh). Lời của các chủ ngôn chính là các dẫn chứng xác thực, sinh động và giàu sức thuyết phục để thuyết ngôn hướng đến kết luận: Kiều đã từ tiểu thuyết đi vào cuộc đời và nhiều khi người ta đã quên không còn nhớ Kiều là người trong tiểu thuyết bởi vì Kiều là nhân vật được xây dựng bởi một nghệ sĩ đại tài - Nguyễn Du. Rõ ràng, lập luận đa thanh khiến cho ngôn ngữ lập luận chặt chẽ mà vẫn sinh động, giàu cảm xúc; kết luận mang sức thuyết phục cao bởi nó được dẫn dắt bằng lý lẽ rõ ràng, sắc bén, logic, được chứng minh bằng dẫn chứng vô cùng sinh động nhưng xác đáng, tin cậy. Bên cạnh đó, điểm đáng chú ý trong lập luận đa thanh giọng chồng giọng ở văn bản nghị luận văn học là trường hợp chủ ngôn chính là nhà văn, nhà thơ, nhân vật văn học được nói tới. Đây là lập luận đa thanh thường gặp nhất trong văn bản nghị luận văn học, bởi lẽ khi bàn về một 75TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020 tác gia, một tác phẩm hay vấn đề, nhân vật văn học nào đó thì tác giả nghị luận phải cảm, phải thấu hiểu từ tư tưởng, quan điểm sáng tác đến thành công và hạn chế của tác giả văn học, do đó, việc dẫn lời của chủ ngôn và coi đó là bằng chứng xác thực là một thao tác bắt buộc phải có trong văn bản nghị luận văn học. Ví dụ 13: Nhưng cái sức mạnh lớn nhất của thơ Tố Hữu chính là quả tim anh. Tố Hữu rất ít làm thơ tình. Nhưng thơ anh là thơ của một tình nhân. Anh đã nói các vấn đề bằng trái tim của một người say đắm. Anh nói về Bác: “Chiều nay gió lộng nắng hanh,... Nắng thơm rơm mới đồng quê gặt mùa”(...) Anh viết về miền Nam: “Ôi miền Nam vì sao mỗi lúc,... Một câu hò cũng đậm trong tim. [7, tập III, tr.235] Lập luận trong ví dụ 13 được tổ chức theo lối diễn dịch, kết luận nằm ở câu đầu, luận cứ ở các câu sau. Tính đa thanh của lập luận thể hiện ở chỗ các luận cứ đều lấy dẫn chứng trong các tác phẩm của Tố Hữu, nói cách khác thì phần được trích dẫn sau dấu hai chấm chính là lời của chủ ngôn. Thuyết ngôn trong lập luận kiểu này làm nhiệm vụ dẫn dắt lời của chủ ngôn sao cho hợp lý, logic để làm luận cứ tin cậy phục vụ cho kết luận. 2.3.2. Hiện tượng đa thanh trong lập luận nghịch hướng Trong lập luận, thường xuất hiện sự tranh luận phản biện. Tính phản biện trong lập luận làm cho vấn đề bàn luận được nhìn đa chiều, ở nhiều góc độ, do đó kết luận rút ra mang tính thuyết phục hơn. Trong lập luận phản biện, phải có ít nhất hai luận cứ, trong đó một luận cứ của chủ ngôn, một luận cứ của thuyết ngôn. Nếu một lập luận có hai quan điểm trái ngược, xung đột nhau thì kết luận rút ra sẽ dựa vào luận cứ có hiệu lực lập luận mạnh, và đó là luận cứ của thuyết ngôn. Ví dụ 14: Nguyên Ngọc coi “Sông Đà” như một cuốn tiểu thuyết và cho Nguyễn Tuân “đã nâng thể tùy bút, thể văn sở trường của anh lên một bước mới tạo thành như là một thứ ‘tùy bút tiểu thuyết”(Báo “Văn học” số 113, tr. 10). Có thể và có thật như vậy không? Trước cách mạng, bên cạnh những tùy bút, Nguyễn Tuân cũng đã có thể viết truyện dài, truyện ngắn (như “Thiếu quê hương”, “Nhà bác Nguyễn”). Nhưng Nguyễn Tuân đã không thành công. Tiểu thuyết của anh vẫn mang nặng tính chất tùy bút: nhân vật không rõ nét, nhà văn luôn xen vào để phát biểu cảm nghĩ cá nhân. Sau cách mạng, không biết có phải do rút được kinh nghiệm cũ mà Nguyễn Tuân không viết tiểu thuyết không? Có thể sau này anh sẽ thành công trong thể tài đó. Nhưng cho đến nay, Nguyễn Tuân vẫn nổi bật là một nhà viết tùy bút. Và “Sông Đà” cũng là một tập tùy bút không hơn không kém. [7, tập V, tr. 149] Trong lập luận này, thuyết ngôn (Nam Mộc) muốn rút ra kết luận (r): “Sông Đà” là một tập tùy bút. Đầu tiên, thuyết ngôn dẫn lời của chủ ngôn Nguyên Ngọc. Nhưng ngay sau đó, Nam Mộc lại đặt câu hỏi: Có thể và có thật như vậy không? Câu hỏi này có tác dụng định hướng lập luận, nó thể hiện sự hoài nghi về nhận xét của Nguyên Ngọc: “Sông Đà” như một cuốn tiểu thuyết - một thứ “tùy bút tiểu thuyết”. Nhận xét của chủ ngôn được thuyết ngôn dẫn ra với mục đích không phải là tìm 76 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG “đồng minh”, mà là dẫn dắt để đối chiếu với quan điểm của tác giả. Nam Mộc đã đưa ra dẫn chứng là các sáng tác trước cách mạng để thấy rằng Nguyễn Tuân không phải nhà viết tiểu thuyết, và khẳng định: cho đến nay, Nguyễn Tuân vẫn nổi bật là một nhà viết tùy bút và sau đó rút ra kết luận “Sông Đà” cũng là một tập tùy bút không hơn không kém. Như vậy, nhận xét ban đầu của Nguyên Ngọc (chủ ngôn) được Nam Mộc (thuyết ngôn) đưa ra để làm căn cứ phản bác lại, từ đó phân tích, chứng minh để rút ra kết luận. Rõ ràng, sử dụng lập luận đa thanh nghịch hướng giúp cho lập luận có ấn tượng và kết luận giàu sức thuyết phục. Có thể nói đa thanh trong lập luận thường xuyên xuất hiện ở văn bản nghị luận, đó có thể là đa thanh lập luận đồng hướng hay đa thanh lập luận nghịch hướng. Đa thanh trong lập luận là một phương tiện rất “lợi hại”, có tác dụng cao trong các lập luận, tranh biện. Đa thanh trong lập luận có thể nói đã trở thành thói quen trong lập luận ở VBNL. 3. KẾT LUẬN Mạch lạc trong quan hệ lập luận ở VBNL được thể hiện rõ rệt qua các phương diện như kiểu lập luận, đặc điểm của các thành phần lập luận và tính đa thanh trong lập luận. Muốn cho nội dung lập luận được thể hiện rõ ràng mạch lạc, thuyết phục thì tác giả lập luận phải lựa chọn được kiểu lập luận sao cho phù hợp nhất. Đó là lập luận diễn dịch là hình thức tổ chức lập luận phù hợp với các lập luận chỉ có luận cứ đồng hướng và các tam đoạn luận; lập luận quy nạp phù hợp với các lập luận có luận cứ nghịch hướng và lập luận mang tính phản biện;... Đồng thời, lập luận phải lựa chọn được hình thức thể hiện luận cứ, kết luận đa dạng, sinh động mà phù hợp cùng với ngôn từ giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm. Bên cạnh đó, hiện tượng đa thanh xuất hiện thường xuyên trong lập luận sẽ giúp cho lập luận vừa có sự mạch lạc rõ ràng, thuyết phục lại vừa tạo được sự hấp dẫn. Có thể nói, chính mạch lạc trong quan hệ lập luận ở VBNL có vai trò quan trọng trong việc thể hiện tính truyền cảm mạnh mẽ và tính thuyết phục của loại văn bản này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Diệp Quang Ban (2002), Giao tiếp. Văn bản. Mạch lạc. Liên kết. Đoạn văn, Nxb KHXH, Hà Nội. 2. Đỗ Hữu Châu (2002), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội 3. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 4. Hữu Đạt, (2011), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục Việt Nam. 5. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học Việt ngữ, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 6. Sách giáo khoa Ngữ văn (lớp 7, 8, 9, 10, 11, 12, tập 1+2) (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 7. Đỗ Quang Lưu (tuyển chọn và giới thiệu), Tập nghiên cứu và bình luận văn học chọn lọc, tập I + II + III + IV + V + VI (2000), Nxb Hà Nội. 8. Lữ Huy Nguyên (tuyển chọn và giới thiệu), Tuyển tập văn chính luận Hồ Chí Minh (1997), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 9. Mai Quốc Liên - Nguyễn Văn Lưu (chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, quyển V (2003), Nxb Văn học, Hà Nội. 10. Xã luận báo Nhân dân, từ số thứ sáu, ngày 18/11/2013 đến số thứ bảy, ngày 13/6/2017.
File đính kèm:
- mot_so_dac_diem_cua_mach_lac_trong_quan_he_lap_luan_o_van_ba.pdf