IAS 41 - Nông nghiệp và những vấn đề đặt ra cho kế toán nông nghiệp của Việt Nam hiện nay

Vkhuôn mẫu kế toán hiện nay của Việt Nam chỉ đặt trọng tâm cho các doanh nghiệp hoạt động sản iệt Nam là đất nước nông nghiệp với đa dạng các loại hoạt động nông nghiệp, tuy nhiên những

xuất kinh doanh trong các lĩnh vực thương mại, sản xuất, dịch vụ, xây lắp nói chung, gần như chưa có những

khuôn mẫu về kế toán trong hoạt động nông nghiệp, những nội dung đã có thì quá sơ sài và không phù hợp

với khuôn mẫu chung của quốc tế về kế toán nông nghiệp. Hệ quả là việc xử lý, ghi nhận và trình bày thông

tin không đảm bảo tính trung thực, đúng đắn, phù hợp với đối tượng kế toán là các tài sản sinh học, sản

phẩm nông nghiệp cũng như tình hình và kết quả của quá trình hoạt động nông nghiệp của các doanh

nghiệp nông nghiệp Việt Nam.

pdf10 trang | Chuyên mục: Kế Toán Công | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 279 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung IAS 41 - Nông nghiệp và những vấn đề đặt ra cho kế toán nông nghiệp của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
về điều kiện ghi nhận tài sản 
sinh học và sản phẩm nông nghiệp trên cơ sở thỏa 
mãn điều kiện ghi nhận một tài sản nói chung trong 
VAS 01 “Chuẩn mực chung”. Việc ghi nhận tài sản 
sinh học và sản phẩm nông nghiệp khi thỏa mãn 
đồng thời 3 tiêu chuẩn: 
+ Doanh nghiệp phải có quyền kiểm soát tài sản 
sinh học và sản phẩm nông nghiệp từ một kết quả 
của sự kiện trong quá khứ 
+ Doanh nghiệp có khả năng thu được lợi ích 
kinh tế trong tương lai liên quan đến tài sản sinh học 
và sản phẩm nông nghiệp 
+ Xác định giá trị hợp lý hoặc nguyên giá của 
tài sản sinh học và sản phẩm nông nghiệp một cách 
tin cậy. 
(4) Hướng dẫn về xác định giá trị hợp lý của tài 
sản sinh học và sản phẩm nông nghiệp 
Ban hành những quy định về các phương pháp 
xác định giá trị hợp lý, hạ tầng thông tin để xác định 
giá trị hợp lý của tài sản sinh học và sản phẩm nông 
nghiệp. Trong mọi trường hợp, doanh nghiệp phải 
xác định giá trị của tài sản sinh học và nông sản tại 
thời điểm thu hoạch bằng giá trị hợp lý trừ đi chi phí 
bán hàng vì giá trị hợp lý của tài sản sinh học và 
nông sản tại thời điểm thu hoạch thông thường có 
thể xác định một cách đáng tin cậy. 
Nếu không có giá niêm yết trên thị trường cho 
tài sản sinh học và các phương pháp đo lường giá 
trị hợp lý khác cho tài sản sinh học được coi là 
không tin cậy thì tài sản sinh học được đo lường 
bằng giá gốc trừ hao mòn lũy kế và giá trị suy giảm 
Sè 128/201970
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
lũy kế. Sau đó, khi giá trị hợp lý có thể được xác 
định một cách đáng tin cậy, doanh nghiệp phải xác 
định giá trị tài sản sinh học bằng giá trị hợp lý trừ 
đi chi phí bán hàng. 
(5) Hướng dẫn về ghi nhận kế toán tài sản sinh 
học, sản phẩm nông nghiệp và hoạt động nông nghiệp 
Khi áp dụng nguyên tắc kế toán “Giá trị hợp lý” 
trong kế toán nông nghiệp dẫn đến những thay đổi 
căn bản trong ghi nhận và trình bày thông tin về tài 
sản sinh học, sản phẩm nông nghiệp, hoạt động 
nông nghiệp, đó là: 
5.1. Ghi nhận kế toán đối với tài sản sinh học 
- Ghi nhận ban đầu tài sản sinh học: căn cứ vào 
giá trị hợp lý trừ chi phí bán của tài sản sinh học, kế 
toán ghi tăng giá trị tài sản sinh học và tăng thu nhập. 
- Sau ghi nhận ban đầu: 
+ Các chi phí bỏ ra trong quá trình nuôi, trồng kế 
toán ghi nhận vào chi phí trong kỳ. 
+ Thay đổi giá trị hợp lý so với thời điểm ghi 
nhận ban đầu trừ đi chi phí bán hàng, nếu chênh lệch 
tăng lên kế toán tăng giá trị tài sản sinh học và tăng 
thu nhập, nếu chênh lệch giảm xuống kế toán ghi 
giảm giá trị tài sản sinh học và tăng chi phí trong kỳ. 
Thu nhập và chi phí này được trình bày trên báo cáo 
kết quả kinh doanh trong kỳ kế toán mà khoản lãi/lỗ 
này phát sinh. 
5.2. Ghi nhận kế toán đối với sản phẩm nông 
nghiệp thu được từ tài sản sinh học 
Căn cứ vào giá trị hợp lý trừ chi phí bán của 
sản phẩm nông nghiệp tại thời điểm thu hoạch, kế 
toán ghi tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp và tăng 
thu nhập. 
5.3 Ghi nhận kế toán đối với hoạt động nông nghiệp 
- Kế toán phải tách hoạt động chế biến ra khỏi 
những hướng dẫn kế toán liên quan đến hoạt động 
nông nghiệp vì hoạt động chế biến được chi phối bởi 
quy định của chuẩn mực kế toán “Tồn kho” trên cơ 
sở áp dụng nguyên tắc kế toán “giá gốc” để đo lường 
chi phí hình thành nên sản phẩm, trong khi các hoạt 
động nông nghiệp được chi phối bởi quy định của 
chuẩn mực kế toán “Nông nghiệp” trên cơ sở áp 
dụng nguyên tắc kế toán “giá trị hợp lý” để đo lường 
sự biến đổi sinh học và thu hoạch tài sản sinh học, 
sản phẩm nông nghiệp. 
- Trong kế toán hoạt động nông nghiệp, cần có 
những hướng dẫn về ghi nhận đối với các loại hoạt 
động nông nghiệp khác nhau, cụ thể như ghi nhận 
chi phí đối với hoạt động chăn nuôi phải phân biệt 
giữa gia súc và gia cầm, xác định chi phí được vốn 
hóa và chi phí không được vốn hóa dựa trên khả 
năng mang lợi ích kinh tế trong tương lai của các 
loại gia súc; Ghi nhận chi phí đối với hoạt động lâm 
nghiệp phải phân biệt giữa cây ngắn ngày và cây lâu 
năm; xác định chi phí được vốn hóa và chi phí 
không được vốn hóa dựa trên khả năng mang lợi ích 
kinh tế trong tương lai của các loại cây lâu năm; Ghi 
nhận chi phí đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản 
phải xác định chi phí được vốn hóa và chi phí không 
được vốn hóa dựa trên khả năng mang lợi ích kinh 
tế trong tương lai 
(6) Ghi nhận kế toán đối với các khoản trợ cấp 
của chính phủ trong hoạt động nông nghiệp 
Các khoản trợ cấp của chính phủ cho doanh 
nghiệp nông nghiệp nhằm mục tiêu khuyến khích, 
hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực 
này tham gia tích cực và có hiệu quả, hoặc thu hút 
nhiều doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực hoạt động 
nông nghiệp. Các khoản trợ cấp này có thể có điều 
kiện hoặc không có điều kiện. Việc ước tính, đo 
lường, xác định giá trị khoản trợ cấp của chính phủ 
cũng như cách thức ghi nhận khoản trợ cấp của 
chính phủ phải được tuân thủ dựa trên cơ sở áp dụng 
chuẩn mực kế toán “Trợ cấp của chính phủ và thuyết 
minh thông tin về trợ cấp của chính phủ”. 
Khi phát sinh các khoản trợ cấp của chính phủ 
cho doanh nghiệp nông nghiệp, căn cứ vào giá trị 
của các khoản trợ cấp, kế toán ghi tăng tài sản và ghi 
tăng thu nhập của doanh nghiệp. 
(7) Cần có những hướng dẫn về xác định mức dự 
phòng rủi ro và ghi nhận kế toán đối với dự phòng 
rủi ro trong hoạt động nông nghiệp 
Những rủi ro trong hoạt động nông nghiệp là vô 
cùng nhiều do hoạt động nông nghiệp chịu ảnh 
hưởng trực tiếp của các yếu tố thuộc về tự nhiên, 
thiên tai, dịch bệnh. Vấn đề dự phòng rủi ro trong 
hoạt động nông nghiệp cần phải đặt ra như một vấn 
đề cần thiết khách quan. Cơ chế dự phòng rủi ro 
trong hoạt động nông nghiệp cần phải được thiết 
lập, những xử lý về mặt kế toán cần được xây dựng 
đảm bảo phù hợp với khuôn mẫu chung. 
 (8) Về trình bày và công bố thông tin đối với tài 
sản sinh học và sản phẩm nông nghiệp trên báo cáo 
tài chính 
Bổ sung vào quy định về trình bày và công bố 
thông tin đối với doanh nghiệp nông nghiệp những 
thông tin sau: 
71

Sè 128/2019
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
- Thông tin trình bày tài sản sinh học: 
+ Đối với nhóm tài sản sinh học là các vật nuôi, 
cây trồng ngắn ngày thuộc loại thu hoạch 1 lần thì 
phải được trình bày ở mục tài sản ngắn hạn, hiển thị 
chi tiết riêng cho tài sản sinh học. 
+ Đối với nhóm tài sản sinh học là các vật nuôi, 
cây trồng thuộc loại thu hoạch 1 lần nhưng phải 
sau rất nhiều năm mới có thể thu hoạch được và 
nhóm tài sản sinh học là các vật nuôi, cây trồng 
thuộc loại thu hoạch nhiều lần, khi đưa tài sản sinh 
học vào thu hoạch thì phải được trình bày ở mục 
tài sản dài hạn, hiển thị chi tiết riêng cho tài sản 
sinh học. 
- Công bố thông tin về phương pháp, căn cứ xác 
định giá trị hợp lý của các tài sản sinh học, sản phẩm 
nông nghiệp ở thời điểm thu hoạch. 
Kết luận: 
Trên đây là những nghiên cứu về khuôn mẫu của 
quốc tế và quy định hiện hành của Việt Nam về kế 
toán nông nghiệp, từ đó trao đổi về những vấn đề đặt 
ra cần hoàn thiện cho kế toán nông nghiệp Việt Nam 
hiện nay, nhằm đưa kế toán Việt Nam nói chung và 
kế toán nông nghiệp nói riêng hội nhập, dần hội tụ 
với thông lệ chung của quốc tế về kế toán. Bài viết 
này sẽ tiếp nối cho nhiều nghiên cứu tiếp theo của 
bản thân tác giả và cho những ai quan tâm đến lĩnh 
vực kế toán nông nghiệp. 
Tài liệu tham khảo: 
1. IASB (International Accounting Standards 
Board), 2000, IAS 41 Agriculture, IFRS Foundation 
Publications Department, London. 
2. IASB (International Accounting Standards 
Board), 2014, Amendments to IAS 16 and IAS 41, 
IFRS Foundation Publications Department, London. 
3. Quốc Hội, Luật Kế toán số 88/2015/QH13. 
4. Bộ Tài chính, Hệ thống chế độ kế toán ban 
hành theo TT 200/2014. 
5. Bộ Tài chính, Hệ thống chế độ kế toán ban 
hành theo TT 133/2016. 
6. Bộ Tài chính, Hệ thống chế độ kế toán ban 
hành theo Thông tư 24/2017/TT-BTC. 
7. Nguyễn Quốc Thái, Luận án tiến sỹ kinh tế, 
ĐHKTQT-1983 “Hạch toán chi phí sản xuất và giá 
thành sản phẩm ở các hợp tác xã nông nghiệp”. 
8. Đoàn Đình Thiêm, Hoàn thiện hạch toán chi 
phí sản xuất và giá thành sản phẩm chăn nuôi trong 
các doanh nghiệp nhà nước, Luận án tiến sỹ kinh tế, 
ĐHKTQT-1995. 
9. Nguyễn Quốc Thắng, Tổ chức kế toán quản trị 
chi phí, giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp 
thuộc ngành giống cây trồng Việt Nam, Luận án tiến 
sỹ kinh tế, ĐHKTQT-2011. 
10. Ngô Chí Giang, Kế toán chi phí sản xuất và 
giá thành sản phẩm chăn nuôi gia cầm tại Công ty 
Cổ phẩn Phát triển Công nghệ Nông thôn, Luận văn 
cao học, ĐH Thương mại-2017. 
11. Thái Thị Thái Nguyên, Kế toán chi phí sản 
xuất và giá thành sản phẩm gia súc tại các doanh 
nghiệp chăn nuôi ở Miền Bắc, Luận án tiến sỹ kinh 
tế, ĐH Thương mại - 2019. 
12. Hoàng Thụy Diệu Linh, Kế toán trong lĩnh 
vực trồng trọt, khác biệt giữa Việt Nam và Quốc tế, 
Tạp chí Kế toán và Kiểm toán (5/2018) 
13. Bộ Tài chính, Thực trạng, kinh nghiệm quốc 
tế và lộ trình áp dụng IFRS tại Việt Nam, tài liệu hội 
thảo ngày 22/2/2019 
14. Tổng cục thống kê, Thông cáo báo chí tình 
hình kinh tế - xã hội năm 2017, 
Summary 
Vietnam is an agricultural country with a variety 
of agricultural activities; however, the current 
accounting patterns of Vietnam only focus on busi-
nesses operating in the commercial, production, 
service, construction fields in general, there are 
almost no accounting standards in agricultural 
activities, the existing contents are too sketchy and 
do not conform to international standard of agricul-
tural accounting. Consequently, the processing, 
recording and presentation of information does not 
guarantee the truthfulness, correctness, and rele-
vance to the accounting objects of biological assets, 
agricultural products as well as the situation and 
results of agricultural operations of Vietnamese 
agricultural enterprises.
Sè 128/201972
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học

File đính kèm:

  • pdfias_41_nong_nghiep_va_nhung_van_de_dat_ra_cho_ke_toan_nong_n.pdf
Tài liệu liên quan